Chủ Nhật, 1 tháng 12, 2013

Cách thức giao dịch quỹ mở tại Việt Nam

- 1 nhận xét
>>>Quỹ mở là gì? | Quy mo la gi?
>>>So sanh giữa Quỹ mở và Quỹ đóng


Hiện tại những ai đã từng giao dịch chứng chỉ quỹ mở VFMVF1 thì đều có thể hiểu được cách thức giao dịch. Bài viết này nhằm giới thiệu qua hình thức giao dịch cơ bản, để cho những ai muốn giao dịch chứng chỉ quỹ mở thì dễ dàng tiếp cận. Lấy ví dụ luôn với trường hợp quỹ BVFED của Bảo Việt đang chào bán ra công chúng để dễ theo dõi.

Nhìn hình ảnh dưới đây, chúng ta có thể thấy rằng quỹ mở giao dịch định kỳ ( 2 tuần, 1 tháng...) nên linh hoạt hơn nhiều so với quỹ đóng ( thời hạn 3,5,7 năm...)


Và dưới đây là các bước để có thể giao dịch được CCQ mở.

Đầu tiên, chúng ta phải tới công ty chứng khoán nằm trong danh sách đại lý phát hành, chuyển nhượng của quỹ mở mà bạn muốn giao dịch. Với BVFED thì CTCK mà bạn phải tới là BVSC, dĩ nhiên, khi giao dịch CCQ mở, bạn nhớ luôn phải mang theo CMND nhé .



Như vậy, khác với giao dịch chứng khoán hiện tại, nếu bạn bán CCQ thì ngày nhận tiền là T+5.

Nếu bạn muốn mua CCQ


Còn đối với lệnh bán:



Với BVFED, lô bé nhất là 2 triệu VND, vì vậy Vfer có ai muốn thử giao dịch không?

Theo: VFPress

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/28885-Cach-thuc-giao-dich-quy-mo-tai-Viet-Nam#ixzz2mIJbzwO8
[Continue reading...]

Dark pool là gì và vì sao người ta lại giao dịch trong đó?

- 0 nhận xét
Các "dark pool" - giao dịch khối lượng lớn trong bóng tối - chiếm khoảng 12% khối lượng giao dịch tại Mỹ

Vậy dark pool là gì, vì sao người ta lại thích sử dụng nó, và nó ẩn chứa các rủi ro tiềm ẩn gì?

Ngày 9/10/2012, thị trường chứng khoán Mỹ chứng kiến biến động bất thường với hàng chục cổ phiếu, trong đó có , bất ngờ tăng giảm trong một thời gian ngắn trước khi trở về giá ban đầu. Cổ phiếu Nokia trong phiên giao dịch hôm đó có lúc tăng 18%, sau đó giảm hơn 14%.

Theo công ty dữ liệu thị trường Nanex, ít nhất 258 giao dịch của 146 cổ phiếu trong gần 1h bắt đầu từ 10:02 am đã tạo nên diễn biến giá này. Ví dụ, cổ phiếu Pandora, một lệnh được đặt ở mức giá $10.4340, mà đáng ra phải đặt ở múc giá $10.0434 mới đúng. Các cổ phiếu khác cũng bị biến động theo cách tương tự.



Cổ phiếu Nokia trong phiên giao dịch hôm đó có lúc tăng 18%, sau đó giảm hơn 14%.

Trong khi giới đầu tư chưa biết điều gì đã thực sự diễn ra, nhưng có một điều chắc chắn, những giao dịch này được thực hiện trong dark pool. Vậy, dark pool là cái gì và vì sao người ta lại giao dịch trong đó?

Dark pool bắt đầu vào những năm 1980 khi một số nhà đầu tư tổ chức hợp lại cùng nhau để giao dịch tại một nơi họ có thể tránh con mắt dòm ngó của sở giao dịch công khai, cũng như các nhà môi giới. Họ mong muốn có thể mua hay bán số lượng lớn cổ phiếu mà không làm ảnh hưởng tới thị trường, và nhờ đó có được giá giao dịch tốt hơn.

Vào thời điểm 2005, các dark pools như vậy chỉ chiếm khoảng 3-5% hoạt động trên thị trường.

Mọi thứ bắt đầu thay đổi vào năm 2007, khi Uỷ ban chứng khoán Mỹ () thông qua luật mới mang tên Reg NMS (Regulation National Market System- Điều chỉnh hệ thống thị trường quốc gia), hỗ trợ cạnh tranh giữa các sở giao dịch. Đầu tiên, nó xoá bỏ các quy định bảo vệ việc các sở giao dịch niêm yết giá bằng tay. Tất cả các nhà đầu tư có quyền bỏ qua giá của sở nếu họ có thể kiếm được giá tốt hơn, nhanh hơn ở bất kỳ đâu.

Các nhà giao dịch-môi giới thấy cơ hội trong đó (cũng như trong việc giao dịch tự động ngày càng phát triển), và họ quyết định lập ra dark pools riêng của mình. Các nhà đầu tư tổ chức và các ngân hàng lớn bắt đầu hướng tới việc giao dịch tại đây nhằm giảm chi phí giao dịch.



Hiện tại, giao dịch trong các dark pool chiếm khoảng 12% khối lượng giao dịch tại Mỹ.


Lợi ích chính yếu trong việc giao dịch tại các dark pool là khả năng “cải thiện giá”. Ví dụ, giá bán một cổ phiếu trên sở giao dịch là $10, và giá đặt mua đầu tiên là $10.10. Một dark pool cổ điển sẽ xác định giá tại $10.05, điểm nằm giữa giá mua và giá bán. Và không nhà giao dịch nào lại không yêu thích điều này.

Giao dịch trong bóng tối

Tuy nhiên, giao dịch trong dark pool, bạn sẽ không biết có những ai cùng giao dịch cũng như liệu có ai muốn thứ bạn đang bán hay không. Vậy làm thế nào các nhà môi giới quyết định gửi một lệnh vào trong dark pool trong khi họ không biết có gì đó trong đó?

Một số nhà môi giới thực hiện cắt các giao dịch “thanh toán chuyển lệnh” (“payment for order flow”[1]) tức họ chấp nhận gửi các lệnh của khách hàng của mình tới một dark pool nhất định.

Một cách khác, gây tranh cãi hơn, là họ làm điều này bằng cách tìm kiếm các mảnh thông tin có ích (indications of interest -IOI) từ dark pool. IOI có thể bao gồm bất kỳ mảnh thông tin nào – có thể là mã cổ phiếu, tỷ lệ mua/ bán, giá sẵn sàng mua...

Nó có vẻ giống việc niêm yết giá nhưng thực ra không phải vậy.


IOI không nhanh chóng và rõ ràng, cũng không được phổ biến công khai trên thị trường. SEC từng đề xuất sẽ niêm yết chúng, nhưng tới nay điều này vẫn chưa xảy ra.

Một nhược điểm khác của dark pool, vốn đến từ việc không biết liệu thứ bạn muốn (người mua hay người bán) liệu có ở trong đó không. Điều này có nghĩa bạn sẽ không biết được lệnh giao dịch của mình có thể thực hiện nhanh như trên thị trường công khai hay không.

Đây là vấn đề được đề cập trong nghiên cứu mới nhất của giáo sư Haoxiang Zhu của MIT Sloan School of Management - người có rất nhiều nghiên cứu về dark pool, mang tên ”Dark pool có làm tổn hại việc thiết lập giá (price discovery) không.”

Theo giáo sư Zhu, một mặt bạn có thể có được giá tốt trong dark pool, mặt khác bạn có thể thiệt hại khi lệnh không thể thực hiện ngay lập tức. Cuối cùng thì, vấn đề quan trọng vẫn là rủi ro và biến động.

“Chẳng hạn, bạn rất muốn bán cổ phiếu này vì giữ nó lại rất tốn kém. Bạn càng chần chừ thì giá cổ phiếu càng biến động nhiều. Cổ phiếu biến động càng nhiều thì giữ nó càng lâu lại càng khiến bạn mất nhiều tiền.” Giáo sư Zhu giải thích.

Và chờ đợi thực sự là tồi tệ nếu bạn giao dịch theo tin tức (“informed trader”) . Rốt cục, vấn đề quan trọng là liệu các nhà giao dịch này có thể thực hiện giao dịch trước khi ai cũng biết tới thông tin của họ hay không? Ở đây, thời gian chính là tiền bạc. “Thông tin có thể cũ đi, và thời gian được tính vào là chi phí của các nhà giao dịch thông báo”


Các dark pool làm tăng chênh lệch giá mua bán trên thị trường niêm yết công khai.

Giáo sư Zhu nhận thấy rằng các informed trader đang hướng ngược lại so với các sở giao dịch. Điều này có 2 ý nghĩa. Một mặt, các nhà tạo lập thị trường ở các sở giao dịch biết thêm nhiều thông tin chính xác hơn về một cổ phiếu thông qua các informed trader. Khi các nhà tạo lập thị trường thấy nhiều informed trader hơn, họ mở rộng dao động giữa giá mua và bán để không bị mất nhiều quá.

Tóm lại là: Một mặt, giá trên thị trường mở trở nên chính xác hơn, theo Giáo sư Zhu, tuy nhiên các nhà tạo lập thị trường lại mở rộng biên độ dao động để bảo vệ chính mình khỏi sự tấn công của các nhà giao dịch thông báo.

Mặt khác, các nhà nhà đầu tư không phải khai báo trước, ví dụ các nhà đầu tư giao dịch để dự phòng, có thể giao dịch trong dark pool nơi họ thoải mái và ẩn danh. Điều này nghĩa là họ không ở trên các sở giao dịch mở để giúp các nhà tạo lập thị trường tạo sự thanh khoản, và do làm giảm chênh lệch.

Điều đó với bạn có ý nghĩa ra sao?

Về mặt tích cực, nó có nghĩa rằng các nhà đầu tư đang xử lý các tài khoản hưu trí của bạn… có thể có các giao dịch cổ phiếu tốt hơn trong dark pool.

Về mặt tiêu cực, nếu nghiên cứu của giáo sư Zhu là đúng đắn, thì dark pool khiến chênh lệch trên thị trường mở rộng hơn, điều mà không ai muốn cả, vì nó làm cho cổ phiếu đắt đỏ hơn.

Tuy nhiên, mặt hạn chế lớn nhất của dark pool là chúng ta không biết họ làm thế nào, hay ai đang làm gì đó bên trong nó.

Hồi đầu tháng này, SEC đã phạt một nhà tạo lập dark pool, vì chia sẻ thông tin giao dịch bí mật của khách hàng với một công ty ngoài. Các thông tin này bao gồm cả các lệnh chưa được thực hiện của khách hàng.

Theo SEC: “Dark pool thực hiện trong bóng tối vì một lý do: người mua và người bán mong thông tin giao dịch của mình được bảo mật”. Rất nhiều khách hàng của eBX không được hưởng lợi ích đó, họ không biết rằng hệ thống định tuyến lệnh đã cho phép người khác có độc quyền truy cập thông tin giao dịch và sử dụng nó cho lợi ích riêng của họ.

EBX đã trả $800.000 để dàn xếp cáo buộc, tuy nhiên ai mà biết họ đã kiếm được bao nhiêu khi bán những thông tin kia.

------------------
[1]: Payment for order flow - (Tạm dịch: Thanh toán cho chuyển lệnh): để chỉ khoản tiền nhỏ (ví dụ: 1 xu trên mỗi cổ phiếu) các công ty hay nhà môi giới nhỏ được nhận khi họ chuyển lệnh sang các công ty khác thực hiện thay. Điều này giúp các công ty nhỏ giảm chi phí, trong khi các nhà tạo lập thị trường hay các sở, những người thực hiện lệnh thay thế thì được hưởng lợi khi có thêm khối lượng cổ phiếu họ được xử lý tăng lên, do đó họ trả một phần nhỏ tiền cho các doanh nghiệp môi giới vì đã "định hướng giao thông". (Theo Investopedia).


Nguồn: VFPress

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/28884-Dark-pool-la-gi-va-vi-sao-nguoi-ta-lai-giao-dich-trong-do-#ixzz2mIJ3E98m
[Continue reading...]

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

PTKT (TA) Phương Đông: Các triết lý trong Phân tích kỹ thuật (TA) Phương Đông

- 0 nhận xét
LUẬN VỀ PTKT ( TA) Phương Đông


>>>PTKT (TA) Phương Đông: Các định lý trong phân tích kỹ thuật Phương Đông

>>>PTKT (TA) Phương Đông: Chiêm tinh học Phương Đông

>>>PTKT (TA) Phương Đông: Ngũ Hành Bát Quái


Các triết lý trong TA Phương Đông :

-
Đừng cố dự đoán thị trường mà hãy đi theo thị trường.Thị trường cho ta thấy điều gì thì hãy làm theo thế ấy – Đừng cố chống lại!

Hiểu nôm na rằng : chúng ta không phải là “ vẽ đường cho giá chạy”, dự đoán thị trường đi hướng nào là thị trường/giá sẽ dịch chuyển đúng như vậy…mà sau khi phân tích và dự đoán xong thì sẽ theo dõi thị trường, nếu đúng thì ko có vấn đề gì nhưng nếu sai thì phải điều chỉnh/sửa sai ngay lập tức. TA Phương Đông là xây dựng các kịch bản dựa trên diễn biến của thị trường bởi vì chúng ta không chắn chắn 100% kịch bản đó sẽ xảy ra.

CÓ 1 ĐIỀU CHẮC CHẮN TRONG TƯƠNG LAI LÀ KHÔNG CÓ GÌ CHẮC CHẮN.

-Hiểu “ tâm lý” người chơi nghĩ gì hay hơn là hiểu thị trường sẽ đi đâu về đâu: Tất cả các thị trường tài chính ( Stocks, Bonds, Currency, Options,…) đều do con người tạo ra và ở đó con người tham gia vào…cho nên chúng ta đang chơi với cuộc chơi giữa con người với con người…chứ không phải chơi/đấu với máy móc hay Thần Thánh. Vậy cho nên : BIẾT NGƯỜI BIẾT TA – TRĂM TRẬN KHÔNG THUA ( nên nhớ ko phải TRĂM THẮNG nhé..bởi KHÔNG THUA tức là từ HOÀ cho đến THẮNG).

Do đó, đây là 1 cuộc” ĐẤU TRÍ” mà ai nắm bắt được “ TÂM LÝ” của đối phương đang nghĩ gì và muốn làm gì…thì cửa thắng rất cao…Nhưng tiếc là trên đời này làm gì có ai hiểu thấu hết lòng người đang nghĩ gì?

ĐO SÔNG, ĐO BỂ - NÀO AI ĐO NỔI LÒNG NGƯỜI.

-Nắm được chu kỳ/timing của thị trường thì coi như nắm được chiếc chìa khoá mở cách cửa kho báu trong thị trường. Đối với TA Phương Đông, người ta coi chủ thể của thị trường là THỜI GIAN chứ không phải là GIÁ – KHỐI LƯỢNG. Trên biểu đồ có 2 trục : trục nằm ngang biểu thị thời gian còn trục thẳng đứng biểu thị giá cả. Nếu TA Phương TÂY coi trọng trục thẳng đứng ( Giá) thì TA Phương Đông lại coi trọng trục nằm ngang ( Thời gian). Và đây được xem là trục chính trên chart.

Chu kỳ/Timing tuy nó có quy luật/lặp lại nhưng mà biến hoá trong mọi trường hợp khiến cho chúng ta khó nắm bắt và đoán biết được.

THỜI GIAN LÀ VẠN BIẾN TRONG 1 CHU KỲ BẤT BIẾN.

KẾT LUẬN : Với 3 triết lý trên của TA Phương Đông, chắc hẳn bạn đã hiểu vì sao không có 1 system hay phương pháp nào là hoản hảo cả? Việc hiểu và đoán tâm lý người chơi cũng như nắm bắt chu kỳ trong thị trường dường như là điều không tưởng. Chính điều này đã làm hạn chế tất cả các công cụ/indicator/máy móc/robot ( những thứ vô tri vô giá, cứng nhắc và rập khuôn)….Chúng ta hãy chỉ xem chúng như là “ vật phòng thân” giúp ta cũng cố thêm niềm tin mà thôi, không cần phải chính xác 100% nhưng xác suất 70-80% cũng đã Ok rồi ( kết hợp với tâm lý vững vàng và cách đi tiền/quản lý vốn tốt nữa thì cũng hốt xèng đều đều rồi).
Theo: Vfpress

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/28451-PTKT-TA-Phuong-Dong-Cac-triet-ly-trong-Phan-tich-ky-thuat-TA-Phuong-Dong#ixzz2l40qINZd
[Continue reading...]

PTKT (TA) Phương Đông: Các định lý trong phân tích kỹ thuật Phương Đông

- 0 nhận xét
LUẬN VỀ PTKT ( TA) PHƯƠNG ĐÔNG


>>>PTKT (TA) Phương Đông: Các triết lý trong Phân tích kỹ thuật (TA) Phương Đông

>>>PTKT (TA) Phương Đông: Chiêm tinh học Phương Đông

>>>PTKT (TA) Phương Đông: Ngũ Hành Bát Quái

Các định lý trong phân tích kỹ thuật Phương Đông:

1.Không có gì mới mẻ, sáng sủa dưới ánh sáng Mặt Trời: những gì chúng ta thấy ngày hôm nay thì ngày mai chúng ta sẽ lại thấy.

TÍNH LẶP LẠI.

2.Điều gì đến rồi cũng sẽ đến : những gì mà đã , đang xảy ra ngày hôm nay thì sẽ phải xảy ra trong tương lai – không thể nào thay đổi hay làm khác được.

TÍNH BẮT BUỘC.

3.Mọi thứ luôn vận động theo quy luật : SINH – LÃO – BỆNH – TỬ ( kể cả giá hay thị trường : SINH : chu kỳ mới hình thành/bắt đầu; LÃO : Chu kỳ bắt đầu yếu dần; BỆNH : đang trong giai đoạn bão hoà/sideway; TỬ : đảo chiều và theo 1 chù kỳ mới) .

TÍNH CHU KỲ.

4.Thời gian sẽ trả lời tất cả : yếu tố thời gian là nhân tố quan trọng và quyết định trong TA Phương Đông, giá chỉ là hệ quả mà thôi.

TÍNH TẤT YẾU.

5.Cân bằng là điều vạn vật luôn hướng đến : mọi thứ luôn có xu hướng quay về vị trí ban đầu.

TÍNH CÂN BẰNG


6. Mọi thứ luôn có sự liên kết – cộng hưởng, quan hệ mật thiết và đồng bộ với nhau mà không thể nào tách rời riêng biệt.

TÍNH HÀI HOÀ.


P/s : Để hiểu hết được 6 định lý trên quả là điều không hề dễ dàng một chút nào. Và vận dụng nó vào trong phân tích kỹ thuật là điều càng khó hơn nữa. Nó hơi khác so với 3 phát biểu trong PTKT Phương Tây ( giá luôn theo xu hướng, mọi thông tin phản ánh vào giá, lịch sử sẽ lặp lại).

Theo: Vfpress

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/28450-PTKT-TA-Phuong-Dong-Cac-dinh-ly-trong-phan-tich-ky-thuat-Phuong-Dong#ixzz2l40iN0Sf
[Continue reading...]

PTKT (TA) Phương Đông: Chiêm tinh học Phương Đông

- 0 nhận xét
LUẬN VỀ PTKT (TA) Phương Đông


>>>PTKT ( TA) Phương Đông: Các triết lý trong Phân tích kỹ thuật (TA) Phương Đông

>>>PTKT ( TA) Phương Đông: Các định lý trong phân tích kỹ thuật Phương Đông
>>>PTKT (TA) Phương Đông: Ngũ Hành Bát Quái

CHIÊM TINH HỌC PHƯƠNG ĐÔNG

Khác hẳn với phương Tây về văn hoá và lối sống cũng như cách tư duy….người Phương Đông chúng ta làm gì cũng có trước có sau…luôn hướng đến tương lai nhưng cũng ko quên liếc nhìn về quá khứ. “ Lo xa” là nét đặc trưng trong tâm lý của người Á Đông.

QUÁ KHỨ - HIỆN TẠI – TƯƠNG LAI.

Tương lai chỉ là sự lặp đi lặp lại của quá khứ….hay nói cách khác…tương lai chỉ là sự tiếp diễn của quá khứ khi ta đứng nhìn ở hiện tại….Những “NGUYÊN NHÂN” gây ra ở quá khứ và hiện tại sẽ là minh chứng cho “ KẾT QUẢ” trong tương lai. Luật “ NHÂN – QUẢ” không chỉ áp dụng trong cuộc sống mà còn áp dụng trong dự đoán thị trường của TA Phương Đông nói chung và chiêm tinh học Phương Đông nói riêng.

Chiêm tinh học Phương Đông sau bao nhiêu năm nghiên cứu, quan sát..thống kê rất vất vả cuối cùng cũng tìm ra được 10 con số gây đảo chiều cho thị trường hoặc chí ít giá cũng phản ứng rất mạnh với các con số này.

Sau đây là 10 con số : 9, 17, 26, 33, 42, 65, 76, 129, 172, 200 ~ 257.

Đây là các con số không chỉ có ý nghĩa trong phân tích thị trường mà còn có ích trong đời sống thực tế nữa. Bỡi lẽ nó được phát hiện từ vũ trụ…từ thiên văn học được rút ra hàng ngàn năm.

Trong 10 con số trên…có 3 con số cơ bản : 9, 17, 26.

Nói sơ qua 1 chút về ý nghĩa đời sống thực tế của 3 con số này. Như chị em phụ nữ điều biết, chu kỳ kinh nguyệt của phái nữ thường kéo dài 26 – 28 ngày ( chu kỳ chuẩn…có người hơn 30 ngày). Các cặp vợ chồng hay đôi trai gái khi muốn ân ái hay quan hệ thì đều dựa vào chu kỳ kinh nguyệt để tính toán xem có an toàn hay không?

Sau đây là cách tính :

Lấy 26 – 28 ngày chia cho 2 ta được 13 – 14 ngày…sau đó cộng trừ cho 5 ngày ta được 3 khoảng như sau:

- Khoảng thứ 1 : từ ngày mồng 1 đến 8/9 : tương đối an toàn.

- Khoảng thứ 2 : từ ngày mồng 10 đến 18/19 : nguy hiểm – không được quan hệ.

- Khoảng thứ 3: từ ngày 20 đến 26/28 : an toàn tuyệt đối.

Đó là 1 ví dụ về ứng dụng các con số trong thực tiễn.Những ai đang có vợ hay có bạn gái thì nên cẩn trọng nhé!...hehhehhe.

Ngoài ra, cũng dựa trên các con số đó, các cần thủ cũng tính toán để tính xem ngày nào nên đi câu cá…ngày nào thì không nên ( Mình đã áp dụng rồi…phải nói quá chuẩn luôn…tuy mình không biết câu cá…nhưng áp dụng cách tính trên thì trong xô lúc nào cũng đầy cá..….ai hay câu cá thì nên tránh đi câu vào ngày 16 – 17 âm lịch nhé…..đảm bào bạn sẽ trắng tay ra về luôn).

Cũng như cách tính chu kỳ kinh nguyệt và câu cá ở trên, chúng ta cũng tính tương tự cho thị trường:

Nhìn hình trên là mô tả 1 chu kỳ sóng – thời gian gồm 26 phiên, với :

- Phiên thứ 1 đến 9 là con sóng chủ đạo ( xu hướng chính của thị trường hay xu hướng sơ cấp).

- Phiên thứ 10 đến 17 là con sóng hồi ( xu hướng thứ cấp)

- Phiên thứ 18 đến 26 là con sóng tăng tốc tiếp tục xu hướng sơ cấp của phiên 1-9.

Trên đây là một chút phác thảo 1 phần nào về lý thuyết chiêm tinh Phương Đông....mình hy vọng mang đến cho các cao thủ cái gì đó mới mẻ và độc đáo...^^hihi

Theo: Vfpress

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/28449-PTKT-TA-Phuong-Dong-Chiem-tinh-hoc-Phuong-Dong#ixzz2l40XBEMk
[Continue reading...]

PTKT (TA) Phương Đông: Ngũ Hành Bát Quái

- 0 nhận xét
LUẬN VỀ PTKT (TA) PHƯƠNG ĐÔNG


>>>PTKT ( TA) Phương Đông: Các triết lý trong Phân tích kỹ thuật (TA) Phương Đông
>>>PTKT ( TA) Phương Đông: Các định lý trong phân tích kỹ thuật Phương Đông
>>>PTKT (TA) Phương Đông: Chiêm tinh học Phương Đông

>>>Chỉ báo Ichimoku Kinkou-Hyo


NGŨ HÀNH BÁT QUÁI

Có bao giờ bạn tự hỏi rằng : Ý tưởng xây dựng Ichimoku Kinkou-Hyo từ đâu? Tại sao lại xây dựng 5 đường và 1 đám mây mà không phải là 2 – 3 đường hoặc 6 -7 đường?

Như mọi người đều biết, nền triết học Phương Đông, đặc biệt là triết học Trung Hoa đã ảnh hưởng rất lớn đến các nước như Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore,… và đặc biệt trong đó có nước Nhật Bản. Ý tưởng xây dựng Ichimoku dựa trên thuyết NGŨ HÀNH và BÁT QUÁI. Một thuyết rất nổi tiếng của triết học Trung Hoa. Đây chính là điều giải thích tại sao ngoài người Nhật Bản thì người Trung Quốc sử dụng rất giỏi Ichimoku. Và cũng để giải thích tại sao người Phương Tây không bao giờ hiểu được Ichimoku. Bởi vì nó mang đậm bản chất Phương Đông của tụi mình (Rất may là có Việt Nam trong đó nữa). Ai mà học hay nghiên cứu Ichimoku của tụi Phương Tây viết ra thì coi chừng sai bét….từ đó ứng dụng sai dẫn đến cháy nhiều TK thì ráng chịu…hihihi..

Ý tưởng xây dựng 5 đường đó dựa trên thuyết Ngũ hành và Bát quái với :Kim. Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ….hãy chú ý đến thự tự xuất hiện và màu sắc của các đường. Nó có ý nghĩa và có ý đồ hết cả..Tại vì người ta không biết và không hiểu nên đã tự ý thay đổi khác chứ trong bản gốc là thế này :

1. Đường Kijun Sen – màu xanh nước biển tượng trưng là THUỶ - bát quái là Khảm tức là nước.

2. Đường Tenkan Sen – màu đỏ - chính là HOẢ - LỬA

3. Đường Chikou Span – màu xanh lá cây – MỘC – CÂY

4. Đường Senkou Span A – màu vàng/cam – KIM – TRỜI

5. Đường Senkou Span B – màu nâu/xám – THỔ - ĐẤT

Giữa Senkou span A và B là KUMO tương đương với giữa Trời và Đất chính là ‘MÂY”- một yếu tố quan trọng của Ichimoku. Trong mây chứa “ Chấn và Phong” tức sấm chớp và gió.

Như vậy mọi người đã hiểu rõ cách xây dựng các đường đó và ta đã tìm ra được đầy đủ các yếu tố trong Ichimoku tương ứng với thuyết Ngũ Hành và Bát Quái.

Cũng vì vậy mà chúng ta đã giãi mã bức tranh bí ẩn về Ichimoku muốn vẽ rồi. Đây chính là bức tranh phong cảnh mà gồm có : trời, đất, mây, sông, núi (lửa chính là ý muốn nói núi lửa – một loại núi rất phổ biến ở Nhật Bản), cây cỏ. Và còn thiếu 1 yếu tố quan trọng nữa – đó chính là con người. Như các bạn đều biết, đường giá – đó chính là phản ánh hành vi cũng như tâm lý con người mà thôi. Vậy cho nên, đường giá ở đây chính là sự hiện diện của con người trong bức tranh ichimoku.

Và cuối cùng ta đã có đầy đủ trọn bộ gốm có : trời, đất, mây, con người, sông, núi và cây cỏ - Đây là một bức tranh ‘ PHONG THUỶ” tuyệt đẹp của Ichimoku Kinkou-Hyo.

+ Đường Tenkan cắt đường Kijun tức là Hoả và Thuỷ giao nhau - 1 quy luật tương khắc trong thuyết ngũ hành.

+ Đường senkou span A và B cắt nhau tức trời và đất hoà hợp – 1 quy luật tương sinh trong thuyết ngũ hành.

Tenkan Sen gồm Cấn – Ly

Kijun Sen gồm Khảm – Đoài


Khi Tenkan và Kijun đi ngang thì đó chính là Cấn – Đoài ( mang tính TĨNH)


Khi Tenkan và Kijun ngóc lên/ngóc xuống thì lại là Ly – Khảm ( mang tính Động).




Tương Sinh – Tương Khắc chính là quy luật của vạn vật hướng đến sự cân bằng.

Theo: Vfpress

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/28448-PTKT-TA-Phuong-Dong-Ngu-Hanh-Bat-Quai#ixzz2l40DAGoR
[Continue reading...]

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund

- 0 nhận xét
>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?
>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?
>>>Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)
>>>Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF


Quỹ ETF hoạt động ra sao?


Quỹ hoán đổi danh mục (ETF, exchange traded fund) là quỹ đầu tư nắm giữ các loại tài sản như cổ phiếu, hàng hóa, hoặc trái phiếu; và được giao dịch trên thị trường chứng khoán gần với giá trị tài sản ròng ( NAV ) trong suốt phiên giao dịch.

Hầu hết các quỹ ETF hoạt động dựa trên một chỉ số tham chiếu, như chỉ số chứng khoán hoặc chỉ số trái phiếu. Quỹ ETF có thể được phân loại theo dạng quỹ mở hay quỹ ủy thác đầu tư (UIT, unit investment trust – hoạt động trong một thời gian xác định và danh mục cố định), nhưng khác với các loại quỹ truyền thống ở một số khía cạnh sau:

(1) Quỹ ETF không bán chứng chỉ quỹ riêng lẻ trực tiếp cho nhà đầu tư, mà chỉ phát hành theo lô lớn. Dự thảo Thông tư hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ ETF hiện đưa ra quy định một lô đơn vị quỹ ETF bao gồm tối thiểu 1,000,000 đơn vị quỹ ETF.

(2) Nhà đầu không mua lô đơn vị quỹ bằng tiền, mà thay vào đó mua các lô đơn vị quỹ ETF bằng danh mục chứng khoán cơ cấu – mô phỏng theo danh mục của chỉ số tham chiếu đã được chấp thuận. Các nhà đầu tư trực tiếp mua các lô đơn vị quỹ thường là những tổ chức đầu tư và các đơn vị tạo lập quỹ. Đây là hoạt động trên thị trường sơ cấp.

(3) Sau khi mua các lô đơn vị quỹ, nhà đầu tư thường chia nhỏ ra và bán các chứng chỉ quỹ ETF trên thị trường thứ cấp. Điều này cho phép các nhà đầu tư khác mua các đơn vị quỹ riêng lẻ, thay vì mua lô lớn trên thị trường sơ cấp.

(4) Nhà đầu tư muốn bán chứng chỉ quỹ sẽ có hai sự lựa chọn: (i) bán chứng chỉ quỹ riêng lẻ cho các nhà đầu tư khác trên thị trường thứ cấp, hoặc (ii) bán các lô đơn vị quỹ ngược lại cho quỹ ETF. Theo quy định, quỹ ETF sẽ mua lại các lô đơn vị quỹ bằng danh mục chứng khoán cơ cấu, thay vì tiền mặt.

Chứng chỉ quỹ ETF được định giá như thế nào?

Tổ chức phát hành tính toán và công bố giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ ETF hàng ngày, dựa vào giá đóng cửa của chứng khoán cơ cấu trong danh mục sau khi cộng vào các lệ phí và chi phí.

Trong phiên giao dịch, thị giá chứng chỉ quỹ có thể thay đổi liên tục do sự dao động của giá cổ phiếu trong danh mục đầu tư hay nhu cầu của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, cơ chế kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) thường giữ thị giá chứng chỉ quỹ ETF gần với NAV của nó; cụ thể:

• Nếu giá ETF cao hơn giá trị NAV, thì người tham gia kinh doanh arbitrage có thể mua các chứng khoán cơ cấu để đổi lấy đơn vị quỹ ETF và bán nó trên thị trường chứng khoán để kiếm lợi nhuận.

• Nếu giá ETF thấp hơn giá trị NAV, thì người tham gia kinh doanh arbitrage có thể mua các đơn vị quỹ ETF trên thị trường chứng khoán để đổi lấy chứng khoán cơ cấu, và sau đó bán những cổ phiếu riêng lẻ trên thị trường để kiếm lợi nhuận.

Hoạt động arbitrage giữa các thành viên lập quỹ và tổ chức tạo lập thị trường sẽ đảm bảo giá chứng chỉ quỹ ETF liên hệ chặt chẽ với giá của các chứng khoán cơ cấu.

Điều gì quyết định tính thanh khoản của chứng chỉ quỹ ETF?

Quỹ ETF ra đời được xem là giải pháp thay thế có tính thanh khoản cao hơn so với các quỹ tương hỗ.

Các nhà đầu tư tổ chức đủ điều kiện hoạt động trên cả thị trường sơ cấp sẽ dễ dàng tránh được vấn đề thanh khoản thông qua hoạt động mua/bán trực tiếp các lô đơn vị quỹ với quỹ ETF ngay trong phiên; trong khi, các nhà nhà đầu tư khác sẽ giao dịch trên thị trường thứ cấp.

Tuy nhiên, thanh khoản của chứng chỉ quỹ ETF có thể bị ảnh hưởng bởi một số các nhân tố sơ cấp và thứ cấp khác nhau. Những nhân tố sơ cấp bao gồm danh mục đầu tư của quỹ ETF và khối lượng giao dịch của chứng khoán cơ cấu. Những nhân tố thứ cấp bao gồm khối lượng giao dịch của chứng chỉ quỹ và điều kiện thị trường.

Danh mục đầu tư của quỹ ETF. Một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến tính thanh khoản quỹ ETF là các khoản mục đầu tư của quỹ. Nếu các tài sản đầu tư được giao dịch tự do và dễ dàng, thì chứng chỉ quỹ ETF cũng dễ dàng giao dịch.

Tùy vào mục đích khi thành lập quỹ, các quỹ ETF có thể đầu tư vào các chỉ số cụ thể như vốn hóa lớn, trung bình, nhỏ, tăng trưởng hay chỉ số giá trị… Thông thường, các quỹ ETF đầu tư vào các cổ phiếu vốn hóa lớn được niêm yết trên TTCK sẽ có tính thanh khoản cao hơn.

Khối lượng giao dịch của chứng khoán cơ cấu. Khối lượng giao dịch là kết quả trực tiếp giữa cung và cầu; do đó những cổ phiếu có rủi ro thấp thường được mua bán nhiều hơn. Vì vậy, quỹ ETF đầu tư vào những mã cổ phiếu giao dịch nhiều sẽ có tính thanh khoản cao hơn.

Khối lượng giao dịch của chứng chỉ quỹ. Số lượng nhà đầu tư quan tâm đến chứng chỉ quỹ cũng có tác động lên tính thanh khoản của quỹ ETF. Sự sẵn sàng tham gia giao dịch sẽ làm tăng khối lượng, và theo đó làm gia tăng thanh khoản.

Môi trường đầu tư. Mức độ rủi ro của môi trường đầu tư có thể ảnh hưởng mạnh đến thanh khoản quỹ ETF. Nếu quỹ đầu tư vào một nhóm ngành rủi ro, trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng hay tại một thị trường rủi ro sẽ khó thu hút được sự tham gia của nhiều nhà đầu tư.
Nguồn: Baomoi
[Continue reading...]

Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?

- 0 nhận xét
Tuy mới ra đời 20 năm nhưng ngành đầu tư ETF (đầu tư chỉ số) thực sự phát huy hiệu quả.

>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund

>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?

>>>Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)
>>>Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF


1. ETF là gì?

ETF (Exchange Traded Fund) là một hình thức quỹ đầu tư chỉ số. Danh mục của ETF gồm một rổ chứng khoán có cơ cấu như cơ cấu của chỉ số mà nó mô phỏng.

Theo đó, nhà quản lý quỹ không cần tích cực tái cơ cấu danh mục của quỹ mà chỉ cần bám sát theo rổ chứng khoán của chỉ số mục tiêu.

ETF không hoàn toàn là một công cụ đầu tư an toàn với lợi nhuận thấp và chắc chắn, nhưng cũng không phải là một sản phẩm rủi ro hứa hẹn lợi nhuận cao. Đây là một dạng đầu tư tương tự như đầu tư danh mục nhưng có chi phí thấp và suất sinh lời ngang với mức sinh lời của thị trường.

2. Lợi ích của ETF


Đối với nhà đầu tư, ETF là một hình thức quỹ mở nhưng thừa kế cả ưu điểm của quỹ đóng và mở đồng thời hạn chế nhược điểm của 2 loại quỹ này. Do đó, ETF có tính minh bạch cao hơn, phù hợp với nhiều nhà đầu tư và có danh mục đầu tư đa dạng.

Đối với nền kinh tế
, thứ nhất, quỹ ETF chứng khoán có thể là một công cụ hiệu quả để xử lý nợ xấu và sở hữu chéo. Ví dụ, tại Nhật Bản, những năm 1990, nền kinh tế vô cùng khó khăn, thị trường chứng khoán giảm mạnh, khiến cổ phiếu bất động sản và cổ phiếu trong danh mục đầu tư của các ngân hàng đồng loạt giảm mạnh. Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Nhật Bản đã cho phép hình thành các quỹ ETF và các quỹ đầu tư bất động sản, thực chất là việc chứng khoán hóa các tài sản (nợ xấu, sở hữu chéo) trong hệ thống ngân hàng.

Động thái này giúp cải thiện đáng kể chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng, tăng tỷ lệ an toàn tài chính, giảm nợ xấu, từ đó tăng khả năng cung tín dụng của cả hệ thống ngân hàng. Giá trị tài sản của các quỹ ETF này cũng tăng mạnh qua các năm, góp phần xử lý một khối lượng lớn tài sản đọng trong hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, quỹ ETF còn là công cụ phòng chống khủng hoảng. Điển hình là sự ra đời và can thiệp của chính quyền Hong Kong nhằm chống đầu cơ tiền tệ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính ở châu Á.

Nhà đầu cơ nước ngoài giữ vị thế bán hợp đồng tương lai chỉ số trong giai đoạn 1997-1998, gây áp lực khiến thị trường chứng khoán Hong Kong HSI sụt giảm mạnh buộc chính quyền Hong Kong phải mua danh mục chứng khoán cấu thành chỉ số HSI nhằm chặn đà giảm của chỉ số, hạn chế đầu cơ phái sinh và đầu cơ tỷ giá của giới đầu cơ nước ngoài.

Thứ ba, tăng tính hấp dẫn cho thị trường chứng khoán đặc biệt là thị trường thứ cấp. Tạo ra sản phẩm đầu tư minh bạch, cơ chế giao dịch linh hoạt, đa dạng hóa rủi ro và được quản lý chuyên nghiệp; giúp thị trường chứng khoán thu hút thêm nhà đầu tư mới, dòng vốn mới trên thị trường thứ cấp, tạo sự lan tỏa dễ thu hút thêm nguồn vốn cho nền kinh tế qua thị trường sơ cấp.

Thứ tư, thay đổi hành vi và văn hóa đầu tư. Thay vì thực hiện đầu tư vào từng mã chứng khoán riêng biệt, đòi hỏi nhiều thời gian để phân tích thị trường và thời điểm giao dịch. Điều này ngày càng trở nên khó khăn hơn khi số lượng cổ phiếu niêm yết ngày một nhiều hơn, thậm chí lên tới hàng nghìn mã cổ phiếu.

Với sản phẩm quỹ ETF, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào một rổ chỉ số, dễ theo dõi và phù hợp với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp hoặc các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư tổ chức (quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm). Ngoài ra, việc đầu tư vào rổ chứng khoán (đầu tư theo chỉ sổ) cũng hạn chế hiện tượng thị trường bị lạm dụng, thao túng.

Thứ năm
, thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt do cơ chế quỹ mở, nhà đầu tư nước ngoài không bị hạn chế sở hữu số lượng chứng chỉ quỹ nắm giữ. Tuy nhiên, việc nhà đầu tư nước ngoài khi nhận lại danh mục cơ cấu, thì sẽ phải bán ra nếu vượt tỷ lệ sở hữu, sẽ vẫn giúp duy trì việc quản lý tỷ lệ sở hữu tại các tổ chức phát hành.


Nguồn: Vietstock
[Continue reading...]

Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?

- 0 nhận xét
Có thể thấy, hiện hai quỹ ETF là FTSE Vietnam Index ETF và Market Vectors Vietnam ETF đã trở nên quen thuộc với nhà đầu tư Việt Nam. Hai quỹ ETF mới là MSCI Frontier Markets Index ETF đã xuất hiện gần đây cùng iShares MSCI Vietnam Investable Market Index Fund ETF sẽ thành lập trong thời gian tới cũng đang được kỳ vọng. Với những ưu điểm như khả năng phân tán rủi ro tốt và cơ chế hoạt động như một quỹ mở, các quỹ đầu tư chỉ số (ETF) dần khẳng định tên tuổi và có thời điểm “làm mưa làm gió” trên TTCK Việt Nam.

>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund

>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?
>>>Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)

>>>Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF


1. FTSE Vietnam Index ETF

FTSE Vietnam Index ETF là quỹ đầu tư chỉ số đầu tiên tại Việt Nam được Deutsche Bank AG thành lập vào ngày 15/01/2008 với số vốn ban đầu là 5.1 triệu USD. Quỹ ETF này mô phỏng FTSE Vietnam Index, một trong hai chỉ số do FTSE Group xây dựng từ ngày 26/04/2007.

Cụ thể, FTSE Group đã xây dựng hai chỉ số chứng khoán đối với thị trường Việt Nam thuộc FTSE Vietnam Index Series. Chỉ số thứ nhất là FTSE Vietnam All-Share Index, gồm các cổ phiếu chiếm đến 90% giá trị vốn hóa thị trường (trước khi điều chỉnh trọng số đầu tư). Chỉ số thứ hai là FTSE Vietnam Index, có thể dùng để đầu tư, gồm các chứng khoán thuộc FTSE Vietnam All-Share Index và còn room nước ngoài.

Tiêu chí thêm/bớt cổ phiếu:
Việc đảo danh mục của FTSE Vietnam Index không phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản của doanh nghiệp mà dựa trên vốn hóa, thanh khoản của cổ phiếu và room còn lại cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, một cổ phiếu sẽ bị loại khỏi danh mục nếu tỷ lệ NĐTNN có thể mua bán được giảm xuống dưới 2%.

Thời gian điều chỉnh danh mục chỉ số:




  • Ngày công bố: Ngày Thứ Sáu đầu tiên của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày thực hiện: Ngày Thứ Sáu thứ ba của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày có hiệu lực: Ngày Thứ Hai của tuần tiếp theo Ngày thực hiện


Danh sách cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số:



  • Chỉ số FTSE Vietnam All-Share Index: 42 cổ phiếu
  • FTSE Vietnam Index: 24 cổ phiếu



2. Market Vectors Vietnam ETF (V.N.M)


Quỹ Market Vectors Vietnam ETF (V.N.M) được công ty quản lý đầu tư Van Eck Global thành lập với số vốn ban đầu 14 triệu USD. Đến ngày 05/09/2012, tổng tài sản đang quản lý của V.N.M đã lên tới 276.7 triệu USD. V.N.M đầu tư ít nhất 80% tổng tài sản vào các cổ phiếu tạo nên chỉ số Market Vectors Vietnam Index do công ty 4asset-management GmbH thành lập ngày 24/11/2008.

Market Vectors Vietnam Index sẽ nhắm đến bao quát khoảng 90% giá trị vốn hóa thị trường đã được điều chỉnh theo số cổ phiếu tự do chuyển nhượng với ít nhất 25 nhưng không quá 75 cổ phiếu thành phần. Đây là cổ phiếu của các công ty niêm yết đang hoạt động tại Việt Nam và có doanh thu nội địa chiếm ít nhất 50% tổng doanh thu.

Tiêu chí thêm/bớt cổ phiếu: Tương tự FTSE Vietnam Index ETF, việc đảo danh mục của V.N.M dựa trên vốn hóa, thanh khoản của cổ phiếu và room còn lại cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, một cổ phiếu sẽ bị loại khỏi danh mục nếu tỷ lệ NĐTNN có thể mua bán được giảm xuống dưới 5%.

Thời gian điều chỉnh danh mục chỉ số:

  • Ngày công bố: Ngày Thứ Sáu thứ hai của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày thực hiện: Ngày Thứ Sáu thứ ba của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày có hiệu lực: Ngày Thứ Hai của tuần tiếp theo Ngày thực hiện


Danh sách cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số:
(20/29)



3. MSCI Frontier Markets Index ETF

Được MSCI thành lập vào ngày 30/11/2007, MSCI Frontier Markets Index là chỉ số phát triển dựa trên vốn hóa thị trường đã điều chỉnh theo khối lượng tự do chuyển nhượng, thể hiện hoạt động của các thị trường cổ phiếu sơ khai. Tính đến ngày 31/07/2012, MSCI Frontier Markets Index gồm 147 cổ phiếu thành viên có vốn hóa lớn và vừa của 25 thị trường sơ khai, đại diện cho khoảng 84% vốn hóa thị trường đã điều chỉnh theo khối lượng tự do chuyển nhượng tại mỗi quốc gia.

25 thị trường sơ khai có cổ phiếu lọt vào rổ tính MSCI Frontier Markets Index là Argentina, Bahrain, Bangladesh, Bulgaria, Croatia, Estonia, Jordan, Kenya, Cô-oét, Lebanon, Lithuania, Kazakhstan, Mauritius, Nigeria, Oman, Pakistan, Qatar, Romania, Serbia, Slovenia, Sri Lanka, Tunisia, Ukraine, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) và Việt Nam.

Trong đó, Việt Nam vừa trở thành quốc gia thứ 4 của châu Á có cổ phiếu được MSCI lựa chọn đầu tư khi TCT Khí Việt Nam - CTCP (HOSE: GAS) được bổ sung vào rổ tính MSCI Frontier Markets Index trong đợt xem xét tháng 8/2012. Được biết trong lần xem xét này, MSCI không loại bỏ bất kỳ cổ phiếu nào.

Hiện chỉ số MSCI Saudi Arabia Index của Ả rập Xê-út không nằm trong MSCI Frontier Markets Index nhưng là một phần của chỉ số các quốc gia thuộc hội đồng hợp tác vùng vịnh - MSCI Gulf Cooperation Council (GCC) Countries Index. Trong khi đó, MSCI Bosnia Herzegovina Index, MSCI Botswana Index, MSCI Ghana Index, MSCI Jamaica Index, MSCI Trinidad & Tobago và MSCI Zimbabwe Index là các chỉ số quốc gia độc lập và cũng không nằm trong MSCI Frontier Markets Index. Kế hoạch đưa các chỉ số này vào MSCI Frontier Markets Index đang được MSCI cân nhắc.

MSCI là tổ chức cung cấp các công cụ hỗ trợ quyết định đầu tư trên toàn thế giới, bao gồm các chỉ số, các báo cáo phân tích về hoạt động và rủi ro của danh mục đầu tư, các dịch vụ quản trị doanh nghiệp.

Danh sách cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số: GAS

Thời gian điều chỉnh danh mục chỉ số: Chỉ số này tiến hành cơ cấu danh mục định kỳ hàng quý vào tháng 2, tháng 5, tháng 8 và tháng 11 nhằm kịp thời phản ánh những thay đổi của các thị trường cổ phiếu cơ sở trong khi hạn chế việc thanh hoán không phù hợp.

Trong đợt xem xét định kỳ giữa năm vào tháng 5 và tháng 11, MSCI sẽ cân đối chỉ số và tính lại tỷ trọng tối đa đối với cổ phiếu vốn hóa lớn và vừa.

4. iShares MSCI Vietnam Investable Market Index Fund ETF (chờ phê chuẩn)

Tháng 12/2011, iShares - công ty quản lý quỹ ETF lớn nhất thế giới - quyết định nộp đơn lên UBCK Mỹ (SEC) để thành lập quỹ chỉ số TTCK Việt Nam mang tên “iShares MSCI Vietnam Investable Market Index Fund”. Quỹ ETF này sẽ mô phỏng chỉ số MSCI Vietnam Investable Market Index, bao gồm các cố phiếu thuộc ba lĩnh vực tài chính, công nghiệp và vật liệu đang giao dịch trên HOSE và HNX.

Tuy nhiên, trong hồ sơ gửi lên SEC, iShares vẫn chưa xác định danh sách các mã cổ phiếu này.

Nếu được SEC thông qua, iShares MSCI Vietnam Investable Market Index có thể khôi phục niềm tin của NĐTNN vào chứng khoán Việt Nam và đem lại động lực to lớn cho thị trường cho nhờ danh tiếng của iShares.
Theo: Phước Phạm (Vietstock) - FFN
[Continue reading...]

Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)

- 0 nhận xét
Trên thế giới, quỹ ETF (Exchange traded Fund - quỹ hoán đổi danh mục) phát triển rất nhanh trong những năm gần đây. Riêng khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện đã có hơn 250 quỹ này. Điều gì khiến quỹ ETF hấp dẫn NĐT?

>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?

>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund
>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?

Hầu hết ETF là quỹ đầu tư theo chỉ số

ETF là loại quỹ mở, nhưng khác ở chỗ chứng chỉ quỹ (CCQ) được khớp lệnh liên tục trong suốt các phiên giao dịch trên sàn chứng khoán tập trung giống như các cổ phiếu, chứ không chỉ giao dịch định kỳ vài ba lần trong tháng thông qua một tổ chức trung gian là các đại lý phân phối như các quỹ mở khác. Do đó, ETF bảo đảm tính thanh khoản cao và nhờ có sự gắn kết với yếu tố thị trường nên khá hấp dẫn NĐT.

Số lượng CCQ của ETF không cố định như quỹ đóng, mà tùy theo quan hệ cung cầu có thể được phát hành bổ sung, hay tạm ngừng nếu số lượng phát hành quá lớn gây khó khăn cho công việc quản lý.

Trên thị trường sơ cấp, ETF không phát hành các CCQ đơn lẻ, mà phát hành thành từng đơn vị chứng chỉ có khối lượng lớn, từ vài chục ngàn đến hàng trăm ngàn. Các đơn vị này được gọi là một “rổ cổ phiếu”. Việc giao dịch các “rổ cổ phiếu” tại trị trường sơ cấp sẽ do các định chế tài chính lớn đảm nhiệm, vì NĐT nhỏ lẻ khó có tiềm lực tài chính để đảm đương công việc này.

Hầu hết quỹ ETF là quỹ đầu tư theo chỉ số, tức là các cổ phiếu của quỹ (danh mục đầu tư của quỹ) luôn bám sát giá trị của một chỉ số nào đó do tổ chức phát hành quỹ lựa chọn như chỉ số S&P 500 (Mỹ), chỉ số Nikkei 225 (Nhật Bản), chỉ số FTSE (Anh), hay chỉ số VN30 của Việt Nam. Đó là những chỉ số lớn phản ảnh kết quả hoạt động tài chính của cả thị trường. Tuy nhiên, cũng có những quỹ ETF chỉ đầu tư theo chỉ số của một ngành hay một liên ngành trong phạm vi hẹp như công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bất động sản, hoặc đầu tư vào lĩnh vực tiền tệ như USD, EUR, yên, hoặc đầu tư vào lĩnh vực hàng hóa như vàng, bạc, dầu thô, lúa gạo. Như vậy, quỹ ETF rất đa dạng, phong phú và không những chỉ có quỹ đối với cổ phiếu, mà còn có các quỹ ETF đối với trái phiếu hay đối với hàng hóa, tiền tệ.

Cho đến cuối năm 2011, trên thế giới đã có 1.134 quỹ ETF, với tổng giá trị vốn hóa hơn 1.048 tỷ USD. Riêng ở khu vực châu Á -Thái Bình Dương có hơn 250 quỹ ETF, với tổng giá trị tài sản trên 70 tỷ USD; trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philippines, Hồng Kông và Trung Quốc. Một số nước như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines còn hình thành các quỹ liên kết để kinh doanh quỹ ETF của nước mình nhưng theo chỉ số của nước ngoài như chỉ số FTSE của Anh quốc. Tại Việt Nam, quỹ ETF đang được xây dựng theo chỉ số FTSE.





Quá trình tạo lập và phát hành quỹ


Trong quá trình này (xem sơ đồ), tổ chức phát hành quỹ có trách nhiệm toàn bộ đối với quỹ nhằm bảo đảm việc quản lý và hoạt động quỹ phải tuân thủ các quy định pháp luật, cũng như các điều khoản đã nêu trong bản cáo bạch.

Người ủy thác thường là các định chế tài chính lớn được tổ chức phát hành quỹ ủy thác để thu gom, vay mượn cổ phiếu cơ sở từ các đơn vị tham gia (hoặc có thể thu một phần bằng tiền) rồi gộp lại thành từng rổ cổ phiếu. Sau đó, người ủy thác sẽ trực tiếp đem các rổ cổ phiếu này đổi lấy các đơn vị chứng chỉ phát hành từ tổ chức phát hành quỹ trong thị trường sơ cấp và chào bán trên thị trường thứ cấp để các NĐT có thể mua bán, giống như mua bán cổ phiếu thường.

Hãng cung cấp chỉ số là những cố vấn kỹ thuật chuyên cung cấp các chỉ số quỹ và duy trì các chỉ số đó trong suốt quá trình hoạt động. Ngoài ra, hãng cung cấp chỉ số còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính thanh khoản của quỹ như thường xuyên cung cấp giá mua và giá bán CCQ trên sàn, yêu cầu quỹ phát hành thêm chứng chỉ khi cần thiết để đáp ứng nhu cầu của NĐT.

Ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm nắm giữ toàn bộ CCQ để bảo đảm lợi ích cho các NĐT.

Bộ phận lưu ký sẽ chịu trách nhiệm nắm giữ sổ sách, chứng từ, quản lý đăng ký những người nắm giữ chứng chỉ, phân phát chứng chỉ cũng như quản lý thông tin về thuế và các thông tin của NĐT.

Quá trình đổi lại chứng chỉ quỹ

Đây là quá trình ngược lại của quá trình tạo lập kể trên. Các nhà ủy thác sẽ mua lại CCQ từ các NĐT trên sàn khi họ muốn bán lại và hình thành “rổ cổ phiếu cần đổi”, sau đó đem rổ cổ phiếu này để đổi lấy “rổ cổ phiếu mới” từ tổ chức phát hành quỹ. Đó là loại giao dịch “hàng đổi hàng”; có nghĩa là quá trình mua đi đổi lại CCQ giữa tổ chức phát hành và các nhà ủy thác không phải thanh toán bằng tiền và vì thế không phát sinh khoản chịu thuế thu nhập. Đây là một ưu điểm lớn của quỹ. Để thực hiện được công việc đổi lại này thì hàng ngày, tổ chức phát hành quỹ phải công bố danh mục rổ cổ phiếu cần đổi như các mã cổ phiếu và số lượng các mã cổ phiếu để phù hợp với sự thay đổi cơ cấu và giá trị của chỉ số quỹ.

Căn cứ xác định giá trị CCQ

Vì CCQ thường theo sát giá trị của chỉ số nên giá cơ sở của CCQ sẽ tương đương với giá trị của chỉ số. Do vậy, ngay trong ngày đầu tiên kinh doanh CCQ thì người ta cũng dễ dàng thiết lập được giá cơ sở để từ đó quy định giới hạn giá hàng ngày cho CCQ. Khi đó, giá cơ sở của CCQ sẽ là giá của chỉ số vào lúc đóng cửa của ngày hôm trước. Giá này sẽ được công bố trên trang web của sàn chứng khoán trước khi CCQ được giao dịch. Chẳng hạn, khi chỉ số Topix vào ngày hôm trước đạt 1.200 điểm thì giới hạn giá vào ngày hôm sau của CCQ sẽ là từ 1.100 yên đến 1.300 yên, tức là dao động trong khoảng ± 100 yên. Sau đó, giới hạn giá hàng ngày tiếp theo của CCQ được quy định trên cơ sở giá trị chỉ số lúc đóng cửa của ngày hôm trước.
(Còn nữa)
Nguồn: TS. Vũ Quý Hưng / ĐTCK
[Continue reading...]

Tổng quan về Market Vectors Vietnam Index và tiêu chí xem xét định kỳ

- 0 nhận xét
Do công ty 4asset-management GmbH xây dựng, Market Vectors Vietnam Index là chỉ số tham chiếu và làm cơ sở đầu tư cho quỹ Market Vectors Vietnam ETF do Van Eck Global quản lý.

>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?
>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund
>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?


Chỉ số này bao gồm các cổ phiếu của cả công ty trong lẫn ngoài nước:

- Các công ty trong nước có hoạt động tại Việt Nam

- Các công ty nước ngoài hoạt động ngoài Việt Nam nhưng:


  • Tạo ra ít nhất 50% doanh thu (hay có ít nhất 50% tài sản) tại Việt Nam, hoặc
  • Được kỳ vọng tạo ra ít nhất 50% doanh thu tại Việt Nam, hoặc
  • Có một vị trí quan trọng trên thị trường Việt Nam và có tiềm năng tăng trưởng

Market Vectors Vietnam Index sử dụng đơn vị USD, được tính như một chỉ số giá (Price index) và một chỉ số tổng tỷ suất lợi nhuận ròng (Total Return Net index). Cả hai chỉ số đều được ra mắt vào ngày 24/11/2008 với giá trị của chỉ số cơ sở là 1,000 điểm tại ngày 15/12/2006.

Mục tiêu của Market Vectors Vietnam Index là bao phủ ít nhất 90% vốn hóa thị trường tự do chuyển nhượng của Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư (Investable Index Universe)* và chỉ số phải có ít nhất ít nhất 25 cổ phiếu.


Hoạt động xem xét định kỳ

  • Ngày chốt dữ liệu: Dữ liệu cho đợt xem xét được xác định dựa trên giá đóng cửa của ngày làm việc cuối cùng (từ thứ 2 đến thứ 6) trong tháng 2, tháng 5, tháng 8 và tháng 11. Nếu một công ty không giao dịch trong ngày làm việc cuối cùng của các tháng này thì giá mới nhất sẽ được sử dụng.

Dữ liệu về chỉ số cơ sở (chẳng hạn như số lượng cổ phiếu mới, tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng mới và hệ số giới hạn tỷ trọng mới) được công bố vào ngày thứ Sáu thứ 2 của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12). Hệ số giới hạn tỷ trọng được xác định dựa trên dữ liệu đóng cửa của ngày thứ Tư thứ 2 trong tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12).

  • Ngày công bố: Ngày Thứ Sáu thứ hai của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày thực hiện: Ngày Thứ Sáu thứ ba của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày có hiệu lực: Ngày Thứ Hai của tuần tiếp theo Ngày thực hiện

Quy trình xem xét

1.
Tất cả cổ phiếu trong Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư được sắp xếp theo vốn hóa thị trường tự do chuyển nhượng (free-float market capitalisation) giảm dần.

2. Các cổ phiếu bao phủ 85% vốn hóa thị trường tự do chuyển nhượng của Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư sẽ đủ điều kiện để được lựa chọn.

3. Các cổ phiếu hiện đang nằm trong danh mục của Market Vectors Vietnam Index và thuộc nhóm bao phủ từ 85-100% vốn hóa thị trường tự do chuyển nhượng cũng sẽ đáp ứng được điều kiện của chỉ số.

4. Nếu tỷ lệ bao phủ vẫn còn dưới 90% vốn hóa thị trường tự do chuyển nhượng của Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư hoặc số lượng cổ phiếu trong Market Vectors Vietnam Index vẫn chưa đủ 25, khi đó các cổ phiếu lớn nhất còn lại sẽ được lựa chọn cho đến khi đảm bảo được tỷ lệ bao phủ ít nhất 90% và số cổ phiếu đạt 25.

Tiêu chí xem xét

1. Tiêu chí đệm (áp dụng đối với các công ty niêm yết ở nước ngoài)

Hạn mức doanh thu được xem xét hàng quý, chỉ các công ty niêm yết ở nước ngoài tạo ra ít nhất 50% doanh thu tại Việt Nam hoặc được kỳ vọng tạo ra ít nhất 50% doanh thu tại Việt Nam hoặc có một vị trí quan trọng trên thị trường Việt Nam và có tiềm năng tăng trưởng mới đủ điều kiện được chọn.

Hạn mức doanh thu đối với các công ty đã nằm trong chỉ số có thể giảm xuống 25%.

Trong một số trường hợp ngoại lệ, tổ chức sở hữu chỉ số có thể thêm vào chỉ số các cổ phiếu có tỷ trọng doanh thu thấp hơn so với hạn mức riêng của từng khu vực.

2. Tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng

Các công ty có tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng (dành cho nhà đầu tư nước ngoài) thấp hơn 5% đối với một cổ phiếu trong chỉ số hoặc thấp hơn 10% đối với các cổ phiếu mới sẽ không đủ điều kiện để có mặt trong chỉ số.

3. Quy mô và thanh khoản

Ngoài yêu cầu về tỷ lệ tự do chuyển nhượng như trên, cổ phiếu được thêm vào chỉ số phải đáp ứng các yêu cầu về quy mô và thanh khoản như dưới đây:

  • Vốn hóa thị trường (Full Market Capitalization) cao hơn 150 triệu USD, và
  • Giá trị giao dịch bình quân hàng ngày trong 3 tháng phải đạt ít nhất 1 triệu USD tại kỳ xem xét và tại hai kỳ xem xét trước đó, và
  • Ít nhất 250,000 cổ phiếu được giao dịch/tháng trong vòng 6 tháng gần nhất tại kỳ xem xét và tại hai kỳ xem xét trước đó.

Đối với các cổ phiếu đã nằm trong chỉ số thì phải đáp ứng được các tiêu chí sau đây:

  • Vốn hóa thị trường đầy đủ cao hơn 75 triệu USD, và
  • Giá trị giao dịch bình quân hàng ngày trong 3 tháng phải đạt ít nhất 0.6 triệu USD tại kỳ xem xét hoặc tại một trong hai kỳ xem xét trước đó, hoặc
  • Ít nhất 200,000 cổ phiếu được giao dịch/tháng trong vòng 6 tháng gần nhất tại kỳ xem xét hoặc tại một trong hai kỳ xem xét trước đó.

Trong một số trường hợp ngoại lệ, tổ chức sở hữu chỉ số có thể sử dụng các nguồn giá khác thay vì nguồn giá từ thị trường sở tại.

Thời gian tiến hành xem xét đối với một số tiêu chí

  • Tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng sẽ được xem xét định kỳ hàng quý.
  • Hệ số giới hạn tỷ trọng quốc gia sẽ được xem xét hàng quý và được áp dụng trong trường hợp cần thiết.
  • Hệ số giới hạn tỷ trọng ngành sẽ được xem xét hàng quý và được áp dụng trong trường hợp cần thiết.
  • Hệ số giới hạn tỷ trọng doanh nghiệp sẽ được xem xét hàng quý và được áp dụng trong trường hợp cần thiết.

Bên cạnh các đợt xem xét định kỳ, chỉ số sẽ được xem xét liên tục khi xuất hiện các sự kiện của doanh nghiệp như sáp nhập, thâu tóm, chia tách, hủy niêm yết và phá sản.

Một số trường hợp đặc biệt

Đối với tất cả các sự kiện doanh nghiệp dẫn đến việc cổ phiếu bị loại khỏi Market Vectors Vietnam Index thì cổ phiếu bị loại sẽ được thay thế ngay lập tức nếu số lượng cổ phiếu thành phần trong chỉ số này rớt xuống dưới 25.

Cổ phiếu thay thế sẽ được thêm vào với tỷ trọng bằng với tỷ trọng của cổ phiếu đã bị loại ra.

Trong tất cả các trường hợp khác, phần tỷ trọng tăng thêm xuất phát từ việc loại bỏ cổ phiếu sẽ được phân phối đồng đều cho tất cả các cổ phiếu còn lại trong chỉ số.

Thay đổi tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng và số lượng cổ phiếu

Những thay đổi đối với tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng hoặc số lượng cổ phiếu xuất phát từ các hoạt động của doanh nghiệp như chia cổ tức, chia tách, phát hành chứng quyền,… được thực hiện ngay lập tức và sẽ có hiệu quả trong ngày giao dịch tiếp theo.

Tất cả những thay đổi khác được thực hiện tại kỳ xem xét hàng quý và sẽ có hiệu lực trong ngày giao dịch tiếp theo sau ngày thực hiện.
Thay đổi do chia tách

Mỗi cổ phiếu chia tách sẽ ngay lập tức được thêm vào chỉ số trong ít nhất một ngày giao dịch. Nếu một công ty chia tách không đáp ứng được điều kiện của chỉ số sẽ bị loại dựa trên mức giá đóng cửa đầu tiên.

Trong một số trường hợp ngoại lệ, tổ chức sở hữu chỉ số có thể đưa ra quyết định khác.

Mất thanh khoản
Các cổ phiếu mất thanh khoản sẽ bị loại ngay lập tức nếu việc mất thanh khoản xuất phát từ các yếu tố sau đây:

  • Không có giao dịch trong 10 ngày liên tiếp
  • Bị đình chỉ giao dịch trong 10 ngày liên tiếp
  • Đang tiến hành các thủ tục phá sản: một doanh nghiệp vừa đệ đơn phá sản sẽ bị loại khỏi chỉ số dựa trên giá cổ phiếu được giao dịch trên thị trường chính (nếu có) hoặc giá cổ phiếu trên thị trường OTC. Nếu không có dữ liệu về cả hai mức giá này, doanh nghiệp sẽ bị loại ở mức giá 0 USD.

Các thay đổi sẽ được công bố ngay lập tức, được thực hiện sau đó 3 ngày và có hiệu lực vào ngày giao dịch tiếp theo sau ngày thực hiện.

Trong một số trường hợp ngoại lệ hoặc trong các tình huống tạm thời, tổ chức sở hữu chỉ số có thể đưa ra quyết định khác.

Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO)

Một cổ phiếu sau IPO đủ điều kiện sẽ sớm được thêm vào chỉ số tại đợt xem xét định kỳ tiếp theo nếu đã có giao dịch trong ít nhất 30 ngày trước ngày chốt số liệu cho đợt xem xét (chẳng hạn như ngày giao dịch cuối cùng của tháng 2, tháng 5, tháng 7 hoặc tháng 11); hoặc tại đợt xem xét định kỳ hàng quý tiếp sau đó.

Để được thêm vào chỉ số, cổ phiếu IPO phải đáp ứng một số yêu cầu về quy mô và thanh khoản như dưới đây:

  • Cổ phiếu IPO phải có vốn hóa thị trường đầy đủ cao hơn 150 triệu USD, và
  • Cổ phiếu IPO phải có giá trị giao dịch bình quân hàng ngày ít nhất 1 triệu USD, và
  • Cổ phiếu IPO phải được giao dịch ít nhất 250,000 đơn vị/tháng hoặc trong vòng 22 ngày.

Thay đổi do thâu tóm và sáp nhập

Kết quả của một vụ thâu tóm hay sáp nhập thường là một cổ phiếu còn tồn tại và một hoặc hơn một cổ phiếu không còn tồn tại mà không nhất thiết phải hủy niêm yết khỏi hệ thống giao dịch tương ứng.

1. Nếu một cổ phiếu thuộc chỉ số thâu tóm hoặc sáp nhập với một cổ phiếu thuộc chỉ số khác: Cổ phiếu tồn tại sau thâu tóm hoặc sáp nhập sẽ vẫn nằm trong chỉ số và cổ phiếu khác sẽ bị loại khỏi chỉ số ngay lập tức.

2. Nếu một cổ phiếu thuộc chỉ số thâu tóm hoặc sáp nhập với một cổ phiếu không thuộc chỉ số:

  • Nếu cổ phiếu tồn tại sau thâu tóm hoặc sáp nhập đáp ứng các điều kiện của chỉ số (các tiêu chí quốc gia/ngành, vốn hóa thị trường hoặc tự do chuyển nhượng) thì cổ phiếu này vẫn nằm trong chỉ số.
  • Nếu cổ phiếu tồn tại sau thâu tóm hoặc sáp nhập không đáp ứng các điều kiện của chỉ số (các tiêu chí quốc gia/ngành, vốn hóa thị trường hoặc tự do chuyển nhượng) thì cổ phiếu này sẽ bị loại khỏi chỉ số ngay lập tức.

3. Nếu một cổ phiếu không thuộc chỉ số thâu tóm hoặc sáp nhập với một cổ phiếu thuộc chỉ số:

  • Nếu cổ phiếu tồn tại sau sáp nhập và thâu tóm đáp ứng được các điều kiện của chỉ số (các tiêu chí quốc gia/ngành, vốn hóa thị trường hoặc tự do chuyển nhượng) sẽ được thêm vào và thay thế cho cổ phiếu hiện tại trong chỉ số.
  • Nếu cổ phiếu tồn tại sau sáp nhập và thâu tóm không đáp ứng được các điều kiện của chỉ số (các tiêu chí quốc gia/ngành, vốn hóa thị trường hoặc tự do chuyển nhượng) sẽ không được thêm vào và cổ phiếu của chỉ số hiện tại sẽ bị loại ngay lập tức.

Trong một số trường hợp ngoại lệ, tổ chức sở hữu chỉ số có thể đưa ra quyết định khác.

----------------------------------------------------

Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư (Investable Index Universe)
Chỉ số tổng hợp (Index Universe) bao gồm cổ phiếu phổ thông và các cổ phiếu tương tự mà nhà đầu tư nước ngoài có thể tự do đầu tư và có cung cấp dữ liệu real-time, dữ liệu lịch sử cũng như định giá tiền tệ. Những cổ phiếu còn lại có thể vẫn được chọn nếu niêm yết trên sàn chứng khoán phù hợp và đáp ứng được các yêu cầu về quy mô cũng như thanh khoản của sàn chứng khoán này. Các cổ phiếu trong Chỉ số tổng hợp phải có mức vốn hóa vượt 50 triệu USD.
Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư (Investable Index Universe) bao gồm các cổ phiếu được lọc ra từ Chỉ số tổng hợp (Index Universe) trên và kể cả cổ phiếu bên ngoài.
Đối với cổ phiếu thuộc Chỉ số tổng hợp có hai điều kiện ràng buộc:
- Thứ nhất, bất kỳ cổ phiếu nào từ Chỉ số tổng hợp có 10 phiên trở lên không có giao dịch trong vòng 3 tháng trước kỳ xem xét hàng quý sẽ không đủ điều kiện để được thêm vào Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư.
- Thứ hai, các công ty có tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng (dành cho nhà đầu tư nước ngoài) thấp hơn 5% cũng không đủ điều kiện để có mặt trong Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư.
Đối với cổ phiếu mới hiện không nằm trong Chỉ số tổng hợp cần các điều kiện:
- Thứ nhất, tỷ lệ tự do chuyển nhượng (dành cho nhà đầu tư nước ngoài) thấp hơn 10% sẽ không đủ điều kiện để có mặt trong Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư.
- Thứ hai, đáp ứng được các điều kiện về quy mô và thanh khoản:

  • Vốn hóa (Full Market Capitalization) cao hơn 150 triệu USD, và
  • Giá trị giao dịch bình quân ngày trong 3 tháng phải đạt ít nhất 1 triệu USD tại kỳ xem xét và tại hai kỳ xem xét trước đó, và
  • Ít nhất 250,000 cổ phiếu được giao dịch/tháng trong vòng 6 tháng gần nhất tại kỳ xem xét và tại hai kỳ xem xét trước đó.

Các cổ phiếu đang nằm trong Chỉ số tổng hợp được phép đầu tư phải thỏa mãn:

  • Vốn hóa cao hơn 75 triệu USD, và
  • Giá trị giao dịch bình quân hàng ngày trong 3 tháng phải đạt ít nhất 0.6 triệu USD tại kỳ xem xét hoặc tại một trong hai kỳ xem xét trước đó, hoặc
  • Ít nhất 200,000 cổ phiếu được giao dịch/tháng trong vòng 6 tháng gần nhất tại kỳ xem xét hoặc tại một trong hai kỳ xem xét trước đó.
Phước Phạm
Infonet
[Continue reading...]

So sanh giữa Quỹ mở và Quỹ đóng

- 0 nhận xét
Tiếp tục với chuỗi bài viết về Quỹ mở trên vfpress nhân sự kiện nhiều quỹ mở ra đời, chúng tôi xin tiếp tục đưa ra những thông tin căn bản về quỹ mở. Sau hơn 10 năm phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến từ sự huy hoàng của quỹ đóng, tới trào lưu đóng quỹ và chuyển đổi thành quỹ mở. Sự ra đời của thông tư 183 hướng dẫn thành lập và quản lý Quỹ mở đã tạo ra một hướng đi mới cho thị trường quản lý quỹ!

>>>Quỹ mở là gì? | Quy mo la gi?




Sự khác nhau giữa quỹ đóng và quỹ mở, ảnh nguồn VCBF!

Quỹ mở với hàng loạt điểm nổi trội và trao quyền tự chủ cho khách hàng đang trở thành một sản phẩm linh hoạt và hướng tới người dùng hơn rất nhiều so với quỹ đóng trước kia. Và với cơ chế giao dịch tương đương giá trị tài sản ròng định kỳ, việc xuất hiện discount to NAV( chiết khấu ) lớn như trước là không thể.

Hiện tại, phí mà khách hàng phải trả cho quỹ mở đang rẻ hơn quỹ đóng và một số quỹ mới mở như của Bảo Việt Fund, VinaFund, MBCapital,... đều đang khuyến mãi phí phát hành CCQ mới nhằm kích thích nhà đầu tư tham gia và làm quen dần với sản phẩm này.

Nếu nhìn vào hình dưới đây thì Quỹ mở chính là lối thoát cho các quỹ đóng đến hạn, cũng là một sản phẩm làm giảm áp lực thoái vốn ồ ạt trên thị trường chứng khoán.


90% thời gian đã qua, nhà đầu tư đã trải qua nhiều bước thăng trầm với quỹ đóng. Giai đoạn trước 2007, ngành quản lý quỹ đã phát triển rất mạnh và đa số các quỹ đầu tư tại Việt Nam đều là quỹ đóng. Áp lực lên ngành quản lý quỹ bắt đầu từ 2007 và cho tới khi thông tu 183 chính thức ra đời, tạo tiền đề quan trọng cho Quỹ mở ra đời. Mới đây, quỹ mở chứng khoản đầu tiên trên thị trường đã có phiên giao dịch đầu tiên vào 07/11/2013, và tới ngày hôm qua 15/11/2013, các nhà đầu tư của VF1 đã có thể giao dịch một cách rất dễ dàng.

Mới đây, trong dự thảo Quyết định về việc tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam (thay thế Quyết định 55/2009/QĐ-TTg) với chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu sở hữu 100%.

Trước đây đối với quỹ đóng, quy định tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tối đa là 49%. Trong dự thảo lần này, không chỉ áp dụng với chứng chỉ quỹ đóng mà mở rộng đối với cả chứng chỉ quỹ mở, quỹ ETF... Trong trường hợp các quỹ có tỉ lệ sở hữu của nước ngoài trên 49% thì được hiểu là nhà đầu tư nước ngoài và phải chịu sự điều chỉnh của luật.

Như vậy, với những điểm ưu thế của quỹ mở so với quỹ đóng và sự cởi mở trong sở hữu đối với nguồn vốn nước ngoài, rất có thể ngành quản lý quỹ sẽ hồi phục trong thời gian tới!
Theo: Vfpress, Bảo Việt Fund, VCBF( ảnh)
[Continue reading...]

Quỹ mở là gì? | Quy mo la gi?

- 0 nhận xét
Nhân sự kiện có khá nhiều quỹ mở xuất hiện ở Việt Nam, gần đây nhất là quỹ BVFED của Bảo Việt Fund, Vfpress.vn xin giới thiệu tới bạn đọc loạt bài viết về quỹ mở với các thông tin cơ bản để cùng cộng đồng đầu tư làm quen dần với một loại hình mới, xu thế thế tất yếu của ngành quản lý quỹ.

>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?


Quỹ mở là khái niệm không hề xa lạ với giới đầu tư và dĩ nhiên, các khái niệm này thường đến từ các nước phương Tây. Quỹ Mở hình thành ở Mỹ từ năm 1924 và bắt đầu được giới thiệu ở Malaysia/Singapore vào năm 1959, Hàn Quốc năm 1970, Thái Lan 1977 và Trung Quốc 1991. Ở Mỹ, gần một nửa số hộ gia đình có đầu tư vào các quỹ.

Quĩ đầu tư mở là một quĩ đầu tư cho phép phát hành thêm và mua lại cổ phiếu đã phát hành theo định kỳ hoặc bất cứ lúc nào( do điều lệ quỹ quy định). Nhà đầu tư có thể mua cổ phiếu của những quĩ như vậy trực tiếp từ công ty quản lý quĩ, hoặc thông qua đơn vị phát hành hay công ty môi giới.

Quĩ đầu tư mở khá phổ biến ở hầu hết các nước phát triển, tuy nhiên thuật ngữ và qui tắc hoạt động có thể hơi khác nhau. Ví dụ: ở Mỹ người ta gọi nó là mutual fund (quĩ tương hỗ), ở Anh là Unit trusts (đơn vị ủy thác đầu tư) hoặc OEIC (công ty đầu tư mở rộng), còn hầu hết các nước châu Âu gọi nó là SICAV (công ty đầu tư không cố định vốn). Hầu hết các quĩ mở là các quĩ quản lý tích cực, tuy nhiên cũng có một số quĩ mở lại áp dụng chiến lược đầu tư thụ động.


Hình ảnh mô tả, nguồn VCBF

Quỹ Mở sẽ có lợi cho những nhà đầu tư mong muốn đầu tư lâu dài và những nhà đầu tư không có nguồn lực hoặc không muốn phân tích chi tiết thị trường và nhiều loại chứng khoán hàng ngày; không có vốn lớn đề đầu tư vào một danh mục đa dạng với nhiều loại chứng khoán và muốn phí giao dịch thấp; muốn có tính kỷ luật và tính tiện lợi trong một sản phẩm đầu tư dài hạn được quản lý chuyên nghiệp.

Quỹ Mở đa dạng hóa các khoản đầu tư vào nhiều cổ phiếu, và phụ thuộc vào chính sách đầu tư của quỹ Mở - có thể đầu tư vào trái phiếu, là loại tài sản mà các nhà đầu tư cá nhân không thể thực hiện được do những quy định pháp lý và đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Công ty Quản lý Quỹ có các chuyên gia đầu tư để phân tích thị trường và các loại chứng khoán với mục tiêu hoạt động tốt hơn thị trường bằng cách chọn các loại chứng khoán được định giá thấp hơn giá trị thực và/hoặc có tiềm năng tăng trưởng tốt hơn trong dài hạn.
Theo: Wikipedia, VCBF,Bảo Việt Fund, Vfpress.vn
[Continue reading...]

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Giao Dịch Theo Sự Chuyển Động Giá (Price Action)

- 0 nhận xét
Price Action là một nghệ thuật và là một kỹ năng ra tất cả quyết định giao dịch của biểu đồ giá “trơn”. Tức là không có bất kỳ chỉ báo nào ngoài một vài đường trung bình để hỗ trợ tìm ra các ngưỡng kháng sự và hỗ trợ. Tất cả các thị trường tài chính đều cung cấp dữ liệu về sự chuyển động giá của một loại sản phẩm nào đó theo các thời kỳ khác nhau trên biểu đồ. Và biểu đồ phản ánh niềm tin của tất cả các thành phần tham gia vào thị trường trong một thời kỳ nhất định.

Tất cả các dữ liệu kinh tế mà dẫn đến sự chuyển động giá trong thị trường thì đầu tiên sẽ làm cho người ta suy nghĩ về việc dữ liệu này sẽ ảnh hưởng đến thị trường như thế nào và sau đó sẽ biến thành hành động và được phản ánh bằng sự chuyển động giá trên biểu đồ. Bằng cách này, sự chuyển động giá đã phản ánh tất cả các biến số của bất kỳ thị trường nào trong bất kỳ giai đoạn nào. Đây cũng là lý do tại sao sử dụng các chỉ báo chậm như Stochastics, MACD, RSI … chỉ thêm tốn thời gian. Price Action cung cấp tất cả các tín hiệu mà bạn cần để phát triển một hệ thống giao dịch hiệu quả. Những tín hiệu này cung cấp cho bạn một sự cảm nhận thị trường và dự đoán được sự chuyển động tiếp theo với một xác suất đủ cao để mang lại lợi nhuận.

Làm sao bạn áp dụng nó vào forex?

Chiến lược Price Action có thể áp dụng vào bất cứ thị trường tài chính nào. Tuy nhiên Forex là thị trường có tính thanh khoản cao nhất và chi phí bắt đầu thấp nhấp cũng như tầm ảnh hưởng lớn của nó tới các thị trường tài chính khác, cũng vì thế mà nó trở thành thị trường phổ biến nhất cho các nhà đầu tư ngày nay. Triết lý của tôi về sự chuyển động giá là bạn chỉ cần nắm thật vững một vài mẫu hình cơ bản là có thể mang lại lợi nhuận rồi. Thưc tế, một phương pháp giao dịch đơn giản với số lượng các mẫu hình ít nhất lại hiệu quả trong việc giảm sự nhầm lẫn và áp lực, cho phép bạn tập trung nhiều hơn về mặt tâm lý giao dịch, cái mà phân biệt giữa người thắng và kẻ thua.

Bước đầu tiên bạn cần làm để áp dụng Price Action vào giao dịch forex là hãy để cho biểu đồ giá “ trần truồng”, tắt hết các chỉ báo. Tiếp đến, nắm vững một vài mẫu hình giá; tôi đề nghị sử dụng mô hình Pin Bar, Inside Bar vàThe Fakey. Bạn có thể kiếm tiền bằng việc nắm vững một trong ba mẫu hình này, tôi khuyên bạn nên học một loại vào một giai đoạn, tinh thông nó rồi mới tới cái tiếp theo.



Nguồn: ub.com.vn
[Continue reading...]

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Phân tích kỹ thuật: On balance volume (OBV)

- 0 nhận xét
On balance volume (OBV)


>>>Chỉ báo Directional Movement Index (DMI) và Chỉ báo Average Directional Movement Index (ADX)
>>>Chỉ báo Ichimoku Kinkou-Hyo
>>>CCI – Com modity Channel Index indicators

OBV là 1 chỉ báo rất có tác dụng và thực tế là các traders rất thường hay sử dụng trong kinh doanh chứng khóan. Nó họat động dựa trên giả thiết sự thay đổi về khối lượng giao dịch sẽ có khả năng làm thay đổi xu hướng thị trường. OBV là sự vận động tổng hợp được diễn giản theo công thức:


On Balance Volume OBV = OBV ngày hôm trước + volume ngày hôm nay (nếu giá đóng cửa là tăng)
OBV =
OBV ngày hôm trước - khối lượng ngày hôm nay (nếu giá đóng cửa là giảm)

Cách sử dụng

• Nếu thị trường đang trong 1 xu hướng chỉ báo này sẽ thường là điểm phá vỡ đi xuống (breakdown) hoặc là điểm thóat khỏi 1 xu hướng (breakout) từ đó đường giá sẽ di chuyển theo đường phá vỡ đi xuống hay thóat khỏi xu hướng đó. Vì thế chỉ báo OBV cho tín hiệu mua khi thóat khỏi 1 xu hướng (breakout) trong phạm vi gần và cho tín hiệu bán khi nó phá vỡ đi xuống (breakdown) trong phạm vi nhất định.

• Nếu thị trường đang trong 1 xu hướng thì chỉ báo này có thể sử dụng để xác nhận tiếp tục của xu hướng đó hoặc có khả năng cảnh báo sự thay đổi của xu hướng tiếp theo. Phân kỳ (divergence) của chỉ báo này và giá có thể đưa ra tín hiệu cảnh báo đảo chiều của xu hướng. Đó là chỉ báo OBV tăng trong khi giá giảm thì sẽ không tiếp tục hướng di chuyển đó. Ngược lại nếu chỉ báo OBV giảm trong khi giá tăng thì sự di chuyển đó là không khả thi.

Trong ví dụ dưới đây bạn có thể thấy OBV đã thóat khỏi 1 phạm vi trong khi đường giá đã thóat khỏi 1 xu hướng tăng với 1 khỏang trống trên đường giá. Bạn nên chú ý mỗi khi OBV di chuyển tăng lên thì đường giá sẽ tăng ngay sau đó. Nó giống như là giá và chỉ báo OBV mong đợi cùng chuyển động với nhau.



Buitrangnam - Ub.com.vn / Sưu tầm
[Continue reading...]
 
Copyright © . Phân tích Kỹ thuật Technical Analysis - Posts · Comments
Theme Template by BTDesigner · Powered by Blogger