Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Điểm cắt vàng - Golden cross giữa MA 50 ngày và MA 200 ngày

- 0 nhận xét
Điểm cắt vàng - Golden cross giữa MA 50 ngày và MA 200 ngày

>>>Chỉ báo Đường trung bình động - Moving Average - MA
>>>Chỉ báo Trung bình động hội tụ phân kỳ (MACD)

Các đường trung bình động (MA) rất phổ biến đối với trader và nhà đầu tư mới. Chúng dễ sử dụng và cho tín hiệu rất dễ để mua hay bán một công cụ tài chính (đặc biệt đối với thị trường chứng khoán). Đường MA 200 ngày được nhắc đến nhiều nhất cùng với đường MA 50 ngày.


Khi thị trường dịch chuyển thì các đường trung bình động cũng dịch chuyển. Các đường trung bình động không dự báo xu hướng giá nhưng xác định xu hướng hiện tại với một độ trễ nhất định. Các đường MA có độ trễ bởi vì chúng dựa vào giá quá khứ, và đó là lý do tại sao MA không phải là chỉ báo giao dịch ngắn hạn tuyệt vời.

Đường MA càng dài hạn thì độ trễ càng lớn. Chẳng hạn MA 10 ngày sẽ phản ứng nhanh với biến động giá thị trường trong khi MA 50 và MA 200 ngày sẽ mất nhiều thời gian hơn để điều chỉnh theo giá. Các MA thích hợp để nhận diện xu hướng chung và xu hướng dài hạn của thị trường.

Rõ ràng MA không thích hợp để giao dịch ngắn hạn nhưng bạn có thể sử dụng nếu bạn muốn. Có thể dụng các MA 5, MA 15 để xác định tín hiệu giao dịch ngắn hạn tuy nhiên luôn thận trọng kiểm tra các chỉ báo khác cũng như các mức hỗ trợ, kháng cự. Đừng chỉ dựa vào MA mà đưa ra quyết định giao dịch vội vàng.

Hướng di chuyển của MA cũng truyền tải thông tin qua trọng về giá và xu hướng chung của thị trường. Một đường MA chạy lên cho thấy giá đang tăng và một đường MA chạy xuống cho thấy giá đang giảm.

Nên sử dụng 2 đường MA khác nhau để xác định tín hiệu mua/bán.

#1. Giao cắt đơn giản: Đường giá giao cắt với MA có thể tạo tín hiệu giao dịch. Giá giao cắt lên trên MA có thể dẫn đến kỳ vọng giá tăng và ngược lại nếu giá giao cắt dưới MA có thể tạo kỳ vọng giá giảm.

#2. Giao cắt MA: 2 đường MA giao cắt nhau có thể tạo tín hiệu giao dịch. Đường MA ngắn hạn hơn giao cắt lên trên đường MA dài hạn hơn có thể dẫn đến kỳ vọng tăng giá và ngược lại.

#3. Điểm cắt vàng: Theo biệt ngữ của Phân tích kỹ thuật, điểm cắt vàng (Golden Cross) xảy ra khi đường trung bình động 50 ngày của một công cụ tài chính cắt lên trên đường trung bình động 200 ngày. Theo thuật ngữ thông thường của giới đầu tư lướt sóng theo xu thế thì nó được xem là một chỉ báo tăng giá hoặc dấu hiệu mua, thường ám chỉ sự giao cắt của một đường trung bình động ngắn hạn (ví dụ đường MA 15 ngày) vượt lên trên đường trung bình động dài hạn hơn (ví dụ đường MA 50 ngày) hoặc một mức kháng cự. Đối với giới đầu tư giá trị ở thị trường chứng khoán thì điểm cắt vàng xảy ra trong bối cảnh thị trường chứng khoán đầu cơ giá xuống (bear market) kéo dài, báo hiệu sự phục hồi mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, điều đó được xác nhận bằng khối lượng giao dịch lớn. Ngoài ra đường trung bình động dài hạn (MA 200 ngày) trở thành mức hỗ trợ mới cho thị trường đầu cơ giá lên (bull market).

Phụ lục: Những bằng chứng lịch sử về điểm cắt vàng

1. Đồ thị ngày giá vàng



2. Đồ thị ngày của chỉ số Dow (DJIA)


ST
[Continue reading...]

Phân kỳ tam đoạn - Triple Divergence

- 0 nhận xét
Phân kỳ tam đoạn hay còn gọi là tam phân kỳ chỉ xảy ra khi phân kỳ thông thường cho tín hiệu sai. Thay vì đảo chiều xu hướng, đường giá lại tạo nên các đỉnh mới cao hơn đỉnh cũ (trong uptrend) hoặc đáy mới thấp hơn đáy cũ(trong down trend). Nếu chỉ báo lúc này cho lặp lại tín hiệu trước đó : tạo nên các đỉnh mới thấp hơn đỉnh cũ( trong uptrend) hoặc đáy mới cao hơn đáy cũ(trong down trend), Đây là tín hiệu rõ ràng và mạnh mẽ về sự hình thành của tam phân kỳ!



Xem thêm:


>>>Phân kỳ Dương - Bullish Divergence
>>>Phân kỳ Âm - Bearish Divergence
>>>Phân kỳ ẩn - Hidden Divergence


ST
[Continue reading...]

Phân tích giá và khối lượng VSA - Volume Spread Analysis

- 0 nhận xét
Phân tích giá và khối lượng VSA - Volume Spread Analysis

Richard Wyckoff dựa trên kinh nghiệm quan sát thị trường và dựa vào cách thức giao dịch của các của các nhà “lái tàu” thời đó mà đặc biệt là Livermore đã đúc kết thành một phương pháp track dòng tiền thông minh của “lái tàu”. Từ kinh nghiệm làm việc trong một Syndicate traders và nghiên cứu Wyckoff thì sau này Tom William đã viết lại phương pháp này dưới dạng dễ hiểu hơn và phổ biến nó ở mức độ rộng rãi dưới tên gọi Volume Spread Analysis – VSA.


VSA nghiên cứu sự mất cân bằng giữa cung cầu. Với VSA thì không có xu hướng lên xuống hay đi ngang mà chỉ có Tích lũy, đánh lên, tái tích lũy, đánh lên, phân phối, đánh xuống, tái phân phối và thả tự do muốn đi đâu thì đi.

Gửi các bạn link VSA của SRSC biên soạn: https://docs.google.com/file/d/0B92c...TNk/edit?hl=en

Có những Nội dung chính sau:

1. Lịch sử phát triển VSA.
2. Các vấn đề cơ bản về VSA.
3. Tìm hiểu quá trình tích lũy - Đẩy giá - Phân phối - Đè giá .
4. Một số thanh BAR cơ bản.
5. Hệ thống VSA trên Metastock 11.0.

Xem thêm:

>>>Giới thiệu khái quát Phân tích kỹ thuật và các trường phái Phân tích kỹ thuật
>>>Những bí ẩn đằng sau khối lượng giao dịch!

Sưu tầm
[Continue reading...]

Chỉ báo Awesome Oscillator

- 0 nhận xét
Chỉ báo Awesome Oscillator

>>>Giới thiệu khái quát các chỉ báo Phân tích kỹ thuật


Chức năng

Bill Williams Oscillator cho biết những thay đổi cụ thể ở động lực thị trường, giúp xác định sức mạnh của xu hướng này, bao gồm cả những điểm hình thành và sự đảo ngược của nó.

Áp dụng

Các dấu hiệu cơ bản được được phân loại như sau:

  1. Dấu hiệu dạng đĩa. Sự kết cấu của 3 vạch trong một hàng trên đường bằng 0, 2 vạch màu đỏ và 1 vạch màu xanh lá cây, vả lại 1 vạch đỏ đầu tiên, vạch xanh thứ 3 cây - cả 2 cao hơn vạch đỏ thứ 2- là một tín hiệu mua rõ ràng, trong khi theo chiều dọc đảo ngược so với đường bằng 0 của kết cấu màu sắc đối diện sẽ cho biết một tín hiệu để bán.
  2. Dấu hiệu... Các biểu đồ giao nhau với đường bằng 0 từ khu vực tiêu cực sang tích cực (tăng trưởng) cho chúng ta một tín hiệu mua rõ ràng, trong khi việc giao nhau với đường bằng 0 từ tích cực sang vùng tiêu cực (giảm), là một tín hiệu để bán.
  3. Dấu hiệu 2 đỉnh. Chỉ báo cho tín hiệu mua khi hình thành kết cấu từ 2 hai đỉnh liên tiếp ở khu vực tiêu cực, đỉnh thứ 2 cao hơn đỉnh thứ 1. Một tín hiệu bán sẽ có kết cấu từ 2 đỉnh liên tiếp trong vùng tích cực, đỉnh thứ 2 thấp hơn đỉnh đầu tiên.



Tính toán

Oscillator Bill Williams được xem là sự khác biệt của 5 giai đoạn và 34-giai đoạn đơn giản di chuyển trung bình, được thiết lập theo các vạch giá trung bình (H + L) / 2.
Giá trung bình = (Đỉnh+Đáy)/2
AO = SMA(Giá trung bình, 5)-SMA(Giá trung bình, 34)
ST
[Continue reading...]

Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Phân kỳ Dương - Bullish Divergence

- 0 nhận xét
Phân kỳ Dương - Bullish Divergence là hiện tượng các đường biểu diễn các chỉ số (Momentum, RSI, MACD…) di chuyển ngược chiều với đường giá, giá giảm thêm tới một mốc mới mà các chỉ số trên lại tăng thêm 1 mốc mới.

Ví dụ về hiện tượng phân kỳ giữa MACD và HNX theo hình dưới:




Phân kỳ dương là dấu hiệu tiên đoán giá sẽ ổn định trong thời gian tới, Các TAer cần kết hợp với nhiều phương pháp khác để xác nhận dấu hiệu đảo chiềuđể mở đầu một xu hướng mới để tham gia vào thị trường.

Xem thêm:

>>>Phân kỳ Âm - Bearish Divergence

>>>Giới thiệu khái quát các chỉ báo Phân tích kỹ thuật
>>>Phân kỳ ẩn - Hidden Divergence
[Continue reading...]

Phân kỳ Âm - Bearish Divergence

- 0 nhận xét
Phân kỳ Âm - Bearish Divergence là hiện tượng các đường biểu diễn các chỉ số (Momentum, RSI, MACD…) di chuyển ngược chiều với đường giá, giá tăng thêm tới một mốc mới mà các chỉ số trên lại tạo đỉnh mới thấp hơn đỉnh cũ.

Ví dụ về hiện tượng phân kỳ giữa MACD và HNX theo hình dưới:




Khi phát hiện phân kỳ âm thì khi đó hành động tốt nhất là chuẩn bị sẵn sàng mọi tư thế để kịp thời đối phó với xu hướng sắp xẩy ra. Các TAer cần kết hợp với các phương pháp khác để xác nhận tín hiệu đảo chiều và thoát khỏi vị thế cầm cổ.

Xem thêm:

>>>Phân kỳ Dương - Bullish Divergence

>>>Giới thiệu khái quát các chỉ báo Phân tích kỹ thuật

>>>Phân kỳ ẩn - Hidden Divergence
[Continue reading...]

Phân tích kỹ thuật: Hội tụ và Phân kỳ

- 0 nhận xét
1. KHÁI NIỆM

>>>Phân kỳ Dương - Bullish Divergence
>>>Phân kỳ Âm - Bearish Divergence
>>>Phân kỳ ẩn - Hidden Divergence


Hội tụ và phân kỳ là những kiến thức quan trọng trong PTKT vì chúng có mặt ở hầu hết các chỉ số thông dụng: Chỉ số xung lượng (Momentum), chỉ số sức mạnh tương đối (RSI), chỉ số trung bình động (MA), trung bình động hội tụ và phân kỳ (MACD), phương pháp phân tích khối lượng…

Nắm vững các khái niệm hội tụ và phân kỳ, chúng ta dễ dàng phát hiện được:

-Những tín hiệu cảnh báo khi thị trường thay đổi xu thế

-Các tín hiệu giao dịch, tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường

HÌNH THÁI

Khi đường biểu diễn các chỉ số (Momentum, RSI, MACD…) di chuyển cùng chiều (tăng, giảm) với đường giá: hiện tượng hội tụ.

Khi các đường chỉ số kể trên di chuyển ngược chiều với đường giá: hiện tượng phân kỳ.

Hiện tượng phân kỳ chia ra:


-Phân kỳ dương: đường chỉ số tăng – đường giá giảm

-Phân kỳ âm: đường chỉ số giảm – đường giá tăng

TỔNG QUÁT



Chúng ta hãy theo dõi và phân tích hiện tượng phân kỳ giữa chỉ số MACD và đường giá trong ví dụ dưới đây.



Hình 1: Hiện tượng phân kỳ giữa chỉ số MACD và đường giá


2. SỬ DỤNG

NGUYÊN LÍ:

Phát hiện được hiện tượng hội tụ, chúng ta sẽ: Duy trì được xu hướng tốt để thu lời bằng cách để cho tiền lãi tiếp tục tăng trưởng.

Phát hiện được hiện tượng phân kỳ, chúng ta sẽ: có những quyết định hợp lý (cắt lỗ, chốt lời) một cách kịp thời vì phân kỳ đóng vai trò quan trọng trong việc:

-Phát sinh các tín hiệu mua bán

-Cảnh báo thị trường sẽ đổi chiều

Phân kỳ dương báo hiệu: thị trường sẽ đổi xu hướng sang tăng

Phân kỳ âm báo hiệu: thị trường sẽ đổi xu thế sang giảm

GIAO DỊCH VỚI HỘI TỤ

Đường chỉ số và khuynh hướng giá hội tụ xác nhận xu hướng thị trường không thay đổi. Khi đó, chúng ta sẽ duy trì được vị thế giao dịch (giữ cổ phiếu) để giá cổ phiếu tiếp tục tăng.

Ở trạng thái hội tụ, giá tăng đột ngột là hợp lý. Khi đó có thể bắt đầu tiến hành giao dịch. Cụ thể, bắt đầu mua vào mỗi khi có hiện tượng điều chỉnh giá.

Lưu ý: chỉ bắt đầu giao dịch khi cả hai đường chỉ số và đường giá đồng thời tạo ra các điểm cao mới. Dứt khoát không tham gia thị trường khi chỉ có một trong hai đường kể trên tạo nên các điểm cao mới vì nhiều rủi ro, thậm chí nguy hiểm.

GIAO DỊCH VỚI PHÂN KỲ:

Thị trường trong xu hướng tăng:

Phân kỳ là tín hiệu thoát khỏi vị thế của các nhà đầu tư đã tồn tại khá lâu rồi. Khi đó hành động tốt nhất là chuẩn bị sẵn sàng mọi tư thế để kịp thời đối phó với xu hướng sắp xẩy ra.

Thị trường trong xu hướng giảm:


-Phân kỳ là dấu hiệu tiên đoán giá sẽ ổn định, điều chỉnh hoặc đảo chiều. Do đó, hành động tốt nhất lúc này là chốt lời khi đường giá phá vỡ mức ổn định hiện tại để mở đầu một xu hướng mới.

-Tóm lại, khi xuất hiện phân kỳ, giá cổ phiếu thường thay đổi. Nếu giá giảm cần hành động ngay (cắt lỗ hoặc chốt lời) 
Theo: Vietstock
[Continue reading...]

Cơ sở của quá trình phân tích kỹ thuật

- 0 nhận xét
Nhà phân tích kỹ thuật trên thị trường chứng khoán là những người có thể dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai bằng việc phát hiện ra xu hướng giá trong quá khứ. Vậy phân tích kỹ thuật dựa trên những cơ sở nào để dự đoán?

>>>Giới thiệu khái quát Phân tích kỹ thuật và các trường phái Phân tích kỹ thuật


1- Biểu đồ phân tích kỹ thuật.

Kỹ thuật dùng biểu đồ phân tích kỹ thuật đã rất phổ biến từ cuối thế kỷ 19, do Charles H. Dow khởi xướng. Sau đó, quan điểm của ông đã trở thành "Lý thuyết Dow" ("Dow Theory"), cho rằng những biến động thị trường với mọi xu hướng đều có thể được dự đoán trước trên cơ sở biến động giá cổ phiếu trên các biểu đồ.

Cơ sở của việc phân tích là tìm cách xác định giá của cổ phiếu trong tương lai bằng việc nhận diện và đo lường giá trị cổ phần. Các lý thuyết về phân tích kỹ thuật cho rằng, các hành vi thị trường trong quá khứ tự nó sẽ xác định giá tương lai.

Biểu đồ phân tích kỹ thuật gồm hai trục biểu thị giá và thời gian. Mỗi một cổ phần, thị trường và chỉ số niêm yết trên bảng giao dịch đều được biểu thị bằng một biểu đồ minh hoạ sự biến động giá chứng khoán qua các thời kỳ; mỗi một đồ thị (đường) là tập hợp các điểm chỉ giá đóng cửa (closing price) ngày giao dịch. Đồng thời, có một sự liên hệ giữa giá mở cửa, giá đóng cửa, giá cao nhất / thấp nhất.

Phân tích biểu đồ có thể được áp dụng cho từng chứng khoán riêng lẻ cũng như một danh mục đầu tư. Các nhà phân tích sử dụng kỹ năng nghiên cứu kỹ thuật các biểu đồ chỉ số để nhận định thị trường đang ở trạng thái "thị trường bò" hay "thị trường gấu". Với các biểu đồ, các nhà đầu tư có thể đưa ra đánh giá tương tự về công ty mà mình lựa chọn.

2- Xu hướng.

Sử dụng biểu đồ để nhận diện xu hướng hiện tại: xu hướng phản ánh tỷ lệ biến đổi trung bình của giá cổ phiếu qua thời gian. Các xu hướng tồn tại trong mọi trạng thái thời gian và mọi thị trường. Các nhà đầu tư hàng ngày có thể xây dựng được xu hướng của cổ phiếu mà họ mua (bán) trong vòng vài phút. Về dài hạn, các nhà đầu tư quan sát các xu hướng tồn tại trong nhiều năm.

Các xu hướng được phân loại: tăng, giảm, hoặc không đổi.

Theo xu hướng tăng, một cổ phiếu hồi phục thường là với một giai đoạn "quá độ" giữa tính ổn định và những biến động giảm. Do vậy, nó sẽ hình thành lên hàng loạt những đỉnh cao hơn và đáy thấp hơn trên biểu đồ cổ phiếu, và người ta dự đoán rằng, khả năng tăng giá cổ phiếu là có thể.

Theo xu hướng giảm, một cổ phiếu suy yếu thường là với một giai đoạn "quá độ" giữa tính ổn định và biến động tăng. Do vậy, nó sẽ hình thành lên hàng loạt những đỉnh thấp hơn và đáy thấp hơn trên biểu đồ cổ phiếu, và người ta dự đoán rằng, khả năng giảm giá cổ phiếu là có thể.

Xu hướng không đổi biểu thị bằng sự dao động lên xuống trong một thời gian dài giữa các giới hạn tăng giảm trực quan. Sự biến động giá trên biểu đồ là không rõ ràng và giá cổ phiếu sẽ không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng kể).

Xu hướng có khả năng ổn định theo thời gian. Một cổ phiếu với xu hướng tăng (giảm) (về giá) sẽ tiếp tục tăng (giảm) cho đến khi có biến động về giá trị hoặc các trạng thái xảy ra. Người "đọc" biểu đồ phải định vị được các đỉnh và đáy - những điểm biểu thị sự chấm dứt khả năng hồi phục hay suy yếu. Lựa chọn tại một điểm gần đỉnh hoặc đáy có thể rất có lợi.

Một châm ngôn nói rằng, "xu hướng là bạn của anh". Với các nhà kinh doanh và các nhà đầu tư, tuyên ngôn này có ý nghĩa là, bạn sẽ đạt thành công hơn nếu lựa chọn vị thế cổ phiếu theo xu hướng phổ biến, hơn là đi ngược lại với nó.

Khối lượng.

Khối lượng cổ phiếu giao dịch đánh giá mức độ tham gia của các nhà đầu tư.

Các biểu đồ cổ phiếu cho thấy khối lượng thông qua đồ thị hình cột dưới các ô giá. Thông thường trong các biểu đồ này, các đường màu xanh chỉ các ngày giá lên và những đường màu đỏ là những ngày giá xuống. Các nhà đầu tư và kinh doanh có thể đánh giá được lãi mua và bán bằng việc theo dõi số lần giá lên xuống trong một đường và mức độ biến động của chúng so với những ngày giá biến động theo chiều hướng ngược lại thì như thế nào.

Cổ phiếu mua vào với lãi cao hơn khi bán ra được gọi là đang trong trạng thái “tích luỹ”, và ngược lại, trường hợp lãi khi bán ra cao hơn khi mua vào được gọi là đang trong quá trình “phân phối”. “Tích luỹ” và “phân phối” thường dẫn tới sự biến động của giá cả. Hay nói cách khác, các cổ phiếu đang trong trạng thái tích luỹ thường sẽ tăng giá chỉ một thời gian ngắn sau khi hành vi mua bắt đầu. Và ngược lại, những cổ phiếu đang được lưu thông thường rớt giá một thời gian sau khi bán ra.

Một cổ phiếu có thể hồi phục được hay không đòi hỏi sự tham gia “nhiệt tình” của các nhà đầu tư. Khi sự hồi phục của một cổ phiếu không hấp dẫn được các nhà đầu tư mới thì nó sẽ rất dễ rớt giá. Các nhà đầu tư và kinh doanh sử dụng các tiêu chí như trạng thái cân bằng khối lượng để đánh giá số lượng người tham gia đang chậm lại hay tiến triển nhanh hơn các động thái của giá cả.

Các cổ phiếu giao dịch thường ngày với một khối lượng trung bình. Khối lượng này có thể xác định được tính lỏng của các cổ phiếu đó. Nhà kinh doanh có thể rất dễ dàng mua và bán các cổ phiếu có tính lỏng cao. Những cổ phiếu không có tính lỏng cao đòi hỏi chi phí giao dịch rất lớn và thường không thể nhanh chóng loại bỏ ra khỏi một danh mục đầu tư. Những phép phân tích biểu đồ cổ phiếu không thể áp dụng cho cổ phiếu không có tính lỏng cao.

Việc giá cổ phiếu gia tăng đột biến kéo theo một khối lượng giao dịch cao hơn rất nhiều so với mức trung bình là có lợi cho sự tiếp tục biến động của giá cổ phiếu theo chiều hướng đó. Nhưng sau một thời gian dài tăng giảm, các cổ phiếu thường có một ngày có khối lượng giao dịch rất lớn, đạt mức đỉnh điểm. Trong những ngày này, người mua, hoặc người bán cuối cùng sẽ là những người được lợi nhất. Sau đó, giá trị của cổ phiếu đó sẽ thay dổi theo chiều hướng ngược lại vì sẽ không còn có đủ lượng người tham gia giao dịch để làm cho giá biến chuyển theo chiều hướng đónữa.


Mô hình và chỉ số


Làm thế nào bạn có thể biến những đường vô tận biểu thị các dữ liệu trên biểu đồ thành một dạng logic mà không cần sự can thiệp của các thao tác kỹ thuật ? Các biểu đồ cho phép các nhà đầu tư và kinh doanh nhận biết hành vi giá cả thị trường cả trong quá khứ và hiện tại để làm cơ sở hợp lý cho việc dự báo cũng như đưa ra các quyết định khôn ngoan. Nó gần giống như công cụ trực giác, trái ngược với quan điểm của các nhà phân tích giá trị.

Biểu đồ cổ phiếu có khả năng tác động tới các chức năng của cả hai bán cầu não về tư duy logic và tính sáng tạo. Quan điểm này đã gây tranh cãi trong giới phân tích đầu tư trong suốt thế kỷ qua.

Dạng "nguyên thuỷ" của việc đọc các biểu đồ là phân tích mô hình. Phương thức này khá phổ biến qua các lý thuyết của Charles Dow và cuốn Technical Analysis of Stock Trends (viết ngay sau Chiến tranh thế giới II). Dạng hiện đại hơn là phân tích chỉ số, một phương pháp khảo sát sử dụng các công cụ toán học trong đó các yếu tố cơ bản của giá và số lượng được xem xét thông qua một loạt các phép tính nhằm dự đoán mức tăng giảm tiếp theo của giá cả.

Phép phân tích mô hình có độ chính xác cao do các đồ thị có xu hướng lặp đi lặp lại sự hình thành các đường. Những mô hình này từ lâu đã được phân loại thành khuynh hướng đầu cơ giá lên và đầu cơ giá xuống. Có một số mô hình được nhiều người biết đến như Đầu và Vai (HEAD and SHOULDERS), Tam giác (TRIANGLES), Hình chữ nhật (RECTANGLES), Hai đỉnh (DOUBLE TOPS), Hai đáy (DOUBLE BOTTOMS), và Hình cờ (FLAGS). Hơn nữa, các chi tiết của đồ thị như các khe hở giá (GAPS) và đường chỉ xu hướng (TRENDLINES) được coi là có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình diễn biến tiếp theo của giá.

Phép phân tích chỉ số sử dụng các phép tính toán học để đánh giá mối quan hệ giữa tình hình diễn biến giá ở thời điểm hiện tại với quá khứ. Hầu hết các chỉ số có thể được phân chia thành các nhóm theo khuynh hướng và giao động. Các chỉ số theo khuynh hướng phổ biến là các chỉ số trung bình biến đổi (MOVING AVERAGES), khối lượng cân bằng (ON BALANCE VOLUME) và MACD. Chỉ số giao động thông thường bao gồm STOCHASTICS, RSI và tỷ lệ thay đổi (RATE OF CHANGE). Chỉ số theo xu hướng thường phản ứng chậm hơn so với chỉ số giao động. Các chỉ số này đi sâu vào phân tích quá khứ để dự đoán tương lai. Chỉ số giao động nhạy cảm hơn với các thay đổi giá cả trong ngắn hạn, giao động qua lại giữa mức OVERBOUGHT và OVERSOLD.

Cả hai phương pháp mô hình và chỉ số đều có thể đánh giá được tâm lý thị trường. Các nhà đầu tư và giao dịch trên thị trường hằng ngày có xu hướng hành động theo tâm lý chung khi giá cả biến động. Họ có khuynh hướng bộc lộ các đặc tính cố hữu mà lặp đi lặp lại nhiều lần. Việc giải thích rõ biểu đồ có sử dụng hai công cụ phân tích quan trọng này đã cho thấy những chấn động tâm lý trong giới đầu tư mà rốt cục thì cũng có thể hiểu được là do sự biến động của giá cả.

Theo ĐTCK

Nguồn: http://vnexim.com.vn/forum/bai-viet/22661-Co-so-cua-qua-trinh-phan-tich-ky-thuat#ixzz2bMmWtVpy
[Continue reading...]

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Phương pháp đầu tư của John Templeton

- 0 nhận xét
Săn lùng cổ phiếu hạ giá toàn cầu

Sir John Templeton đã trở thành nhà đầu tư huyền thoại nhờ tiêu thụ các cổ phiếu giá rẻ ở những thị trường đang trỗi dậy như Nhật Bản và Argentina cho Quỹ Phát triển Templeton của ông từ các thập niên 1950 và 1960, khá lâu trước khi khái niệm này trở nên phổ biến.

>>>Một số kinh nghiệm đầu tư trên TTCK Việt Nam
>>>Một số kinh nghiệm của những nhà giao dịch chứng khoán thành công trên thế giới

Carl Icahn: Người lang thang cô độc - Anh sinh viên luật mê cổ phiếu

Nhưng vụ đầu tư lớn đầu tiên của ông diễn ra ở thị trường Mỹ. Năm 1939, dựa trên suy luận rằng chiến tranh sẽ khiến cho cuộc Đại khủng hoảng bắt đầu năm 1929 kết thúc, Templeton đã mua khoảng 100 USD giá trị mỗi loại cổ phiếu đang giao dịch dưới 1 USD trên các sàn giao dịch chứng khoán lớn của Mỹ.

Chính xác là ông mua 104 cổ phiếu tất cả, bao gồm cả những công ty sắp phá sản. Bốn năm sau, một số “công ty của Templeton” đã không còn tồn tại nhưng nhiều công ty khác đã vượt lên và có những công ty tăng trưởng đến 12.500%! Ít ai biết, ngay từ vụ đầu tư lớn đầu tiên này, Templeton đã dùng 100% vốn vay. Ông không có số tiền 10.000 USD và ông đã vay toàn bộ số tiền này!

John Templeton sinh năm 1912 tại một thành phố nhỏ thuộc bang Tennessee, Mỹ. Khi ông học năm thứ hai ngành kinh tế học tại Yale, cuộc Đại khủng hoảng xảy ra và cha ông không thể tiếp tục đóng tiền học phí cho ông nữa. Thế là Templeton phải vừa học vừa làm để theo học nốt mấy năm cuối đại học.

Ông đã tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu, thậm chí còn giành được học bổng Rhodes của Trường Oxford, Anh. Ngay từ khi còn ở Yale, ông đã bắt đầu quan tâm đến cổ phiếu.

Tại Oxford, dù theo học chuyên ngành luật nhưng ông đã thật sự sẵn sàng trở thành một nhà cố vấn đầu tư nhờ nghiên cứu sâu về các quốc gia trên thế giới. Ông còn tranh thủ đi khắp châu Âu, Nhật Bản và thăm 35 nước khác nhau. Khi Templeton trở về Mỹ, ông được tuyển vào làm việc tại bộ phận tư vấn đầu tư của Merrill Lynch ở New York.

Đến năm 1940, ông quyết định thành lập hãng tư vấn của riêng mình. Đến cuối Thế giới thứ hai, dù mới chỉ có một vài khách hàng nhưng kết quả làm việc của ông đã được đánh giá là xuất sắc. Tiếng tăm về năng lực của Templeton lan rộng, thế là tiền của bắt đầu đổ vào và vào năm 1954, ông đã thành lập quỹ đầu tư toàn cầu đầu tiên của mình.

Khi hãng tư vấn của ông tăng trưởng đến mức 300 triệu USD, Templeton nhận ra mình quá bận rộn với việc điều hành doanh nghiệp hàng ngày đến nỗi ông cảm thấy mình không đủ thời gian để suy nghĩ mà ông thì tin rằng để trở thành một nhà đầu tư thành công, bạn cần có thời gian dừng lại và suy ngẫm về những gì đang diễn ra.

Nhưng thay vì chia sẻ hoặc giao phó bớt công việc của mình cho người khác, ông lại quyết định ngừng hoạt động vào năm 1969. Ông bán toàn bộ công ty cho Piedmont Management và có thể nói ở tuổi 56 ông bắt đầu làm lại từ đầu chỉ với Quỹ Phát triển Templeton - thứ mà Piedmont không đoái hoài khi mua lại doanh nghiệp này.

Ông rời nước Mỹ, chuyển từ cuộc sống gấp gáp của Wall Street sang một phong cách thư giãn hơn nhiều tại quần đảo Bahama. Hơn thế nữa, sau khi từ bỏ quốc tịch Mỹ và nhập quốc tịch Anh, ông có thể sống ung dung ở đó mà không phải trả thuế.

Động thái khôn khéo này về sau đã tiết kiệm cho ông khoảng 100 triệu USD tiền thuế khi ông bán các quỹ tương hỗ của mình cho Tập đoàn Franklin vào năm 1992. Từ tháng 11-1954, khi ông bắt đầu gây dựng Quỹ Phát triển Templeton cho tới khi bán cho Tập đoàn Franklin vào năm 1992, ông đã đạt được mức lãi kép hàng năm là 15,5%, trong khi suốt thời kỳ đó chỉ số công nghiệp Dow Jones chỉ tăng 5,8%/năm.

Những món hời “Made in Japan”

Vào cuối thập niên 1960, Templeton bắt đầu đầu tư lớn vào Nhật Bản sau khi ông phát hiện ra rằng vẫn còn khá nhiều món hời ở Sàn Giao dịch chứng khoán Tokyo. Lúc đó, Nhật Bản được cả thế giới biết đến như điểm quy tụ của các loại hàng hóa “thứ phẩm, rẻ tiền”, thế nhưng cổ phiếu Nhật Bản thậm chí còn rẻ hơn, còn những công ty lớn mà các nhà đầu tư không để mắt đến thì đang được bán trung bình ở mức cao gấp 3 lần giá gốc. Trong khi đó, cổ phiếu Mỹ đang giao dịch ở cao gấp 15 lần.

Nhưng Templeton không chỉ muốn giá hời mà ông muốn có những món hời chất lượng cao. Ông liền lùng sục thị trường Nhật Bản để tìm những công ty được quản lý tốt với sản phẩm có tiềm năng tiêu thụ mạnh và mức tăng trưởng dự báo tối thiểu 15% mỗi năm. Khi tìm được một công ty như thế, ông mua ngay lập tức.

Ông đã mua cổ phiếu của các công ty như Hitachi, Nissan, Matsushita và Sumitomo. Ngày nay, đây là những cái tên quen thuộc với cả thế giới nhưng hồi đó hầu như không một ai ở bên ngoài Nhật Bản biết đến. Ông dồn tiền vào thị trường Tokyo nhiều đến nỗi vào thời điểm ông hoàn tất việc mua cổ phiếu, tổng cộng ông đã đầu tư trên 50% các tài sản trong quỹ của mình vào những món hời “Made in Japan”.

Giá các loại cổ phiếu ở thị trường Tokyo lên đến đỉnh điểm vào đêm giao thừa năm 1989. Có những cổ phiếu được bán với mức lãi cao gấp 75 lần. Nhưng Templeton đã rút ra từ trước đó rất lâu. Sau này, ông tự thừa nhận là ông đã bán quá sớm. Ông hoàn toàn rút khỏi thị trường Nhật Bản vào năm 1986 khi cổ phiếu chỉ mới ở mức lãi gấp… 30 lần.



Dù Templeton đã bán quỹ đầu tư của mình vào năm 1992 để dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tôn giáo và nhân đạo nhưng ông vẫn tiếp tục để mắt đến các thị trường. Vào năm 2000, ở tuổi 87, Templeton đã đột nhập trở lại vào thị trường chứng khoán để mua cổ phiếu của các công ty thương mại điện tử. Và trước khi thị trường này “xì hơi”, ông đã bổ sung 86 triệu USD vào tài sản của mình từ nguyên tắc “rút lui sớm” mà ông vẫn hay áp dụng. Đây quả là hành động đáng nể của một ông cụ già nua!
Thật thú vị khi nhận ra cách mà ông xác định giá trị. Với ông, một trăm nhân tố hay nhiều hơn thế có thể được xem xét vào quá trình định giá, nhưng phần lớn trong số chúng là mang tính đặc trưng của ngành; có 4 nhân tố luôn hiện hữu. 4 nhân tố chính để xem xét trong phân tích cơ bản một công ty là:

1. Chỉ số P/E so sánh với những công ty tương tự

2. Lợi nhuận hoạt động biên (operating profit margins); xem nó có đang tăng không

3. Giá trị thanh lý (liquidation value), tức là giá bán khi thanh lý (sell-off)

4. Tốc độ tăng trưởng trung bình của lợi nhuận, và tính nhất quán của sự tăng trưởng. Tránh những công ty mà lợi nhuận sụt 2 năm liên tiếp. Và cũng né tránh những công ty mà phát triển quá nhanh.
ST
[Continue reading...]
 
Copyright © . Phân tích Kỹ thuật Technical Analysis - Posts · Comments
Theme Template by BTDesigner · Powered by Blogger