Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Tìm hiểu về giao dịch repo

- 0 nhận xét
Hiện nay, trên TTCK Việt Nam, có nhiều Cty CK đã thực hiện loại hình giao dịch repo với nhà đầu tư. Về bản chất, Đây là giao dịch cho vay tiền thông qua hợp đồng mua bán kỳ hạn cổ phiếu với những điểm chung như sau:

>>>Nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu

>>>Tìm hiểu về giao dịch ký quỹ - Margin Trading

>>>Phân tích cơ bản - Fundamental Analysis (FA) là gì?

- Hai bên hợp đồng là nhà đầu tư và Cty CK. Nhà đầu tư ký hợp đồng mua bán có kỳ hạn với một CtyCK với điều khoản bán cổ phiếu cho Cty CK theo giá thỏa thuận, thông thường từ 30-65% so với giá thị trường của cổ phiếu.

- Khi đến hạn, nhà đầu tư mua lại số cổ phiếu này với bằng với giá đã bán cộng với một khoản phí gọi là “lãi suất repo” tính trên tổng giá trị khoản mua bán và thông thường tương đương với lãi suất cho vay của ngân hàng (có công ty tính với một cách khác là giá mua lại với giá cao hơn giá bán ban đầu; và chênh lệch giữa hai giá này được coi là lãi suất repo).

- Trường hợp giá cổ phiếu giảm quá đến một tỷ lệ nào đó (thông lệ 20%), Cty CK có quyền nắm giữ và bán cổ phiếu (thanh lý) để thu hồi vốn. Nếu giá bán thấp hơn giá đã mua thì nhà đầu tư phải nộp bù cho Cty CK; ngược lại, nếu giá bán cao hơn giá của công ty đã mua của nhà đầu tư theo hợp đồng trước đó thì khoản chênh lệch này được trả lại cho nhà đầu tư.

- Mọi quyền lợi liên quan đến cổ phiếu trong thời hạn hợp đồng vẫn thuộc về nhà đầu tư (cổ tức nếu nhận được sẽ được CtyCK khấu trừ khi nhà đầu tư thực hiện mua lại).

Như vậy, giao dịch “repo” ở Việt Nam gần với hình thức giao dịch Bán/Mua lại cổ phiếu và đa số “repo” ở Việt Nam không có sự khác nhau giữa giá bán ban đầu và giá mua lại cổ phiếu. Xét về mặt lãi suất trong loại giao dịch “repo” này, nhà đầu tư chỉ có thể vay tiền với mức lãi suất tương đương lãi suất ngân hàng; đồng thời có thể đáp ứng nhu cầu vốn mà không cần phải bán đi chứng khoán. Một điểm lưu ý khác nữa là so với thông lệ quốc tế, công cụ chứng khoán cơ sở ở đây là cổ phiếu, khác với trái phiếu trong một giao dịch repo điển hình ở các nước khác.

Nguồn: Sưu tầm
[Continue reading...]

Nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu

- 0 nhận xét
Tách và gộp cổ phiếu là việc làm tăng hoặc giảm số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty cổ phần mà không làm thay đổi vốn điều lệ, vốn cổ phần hay toàn bộ giá trị thị trường tại thời điểm tách hoặc gộp cổ phiếu.

>>>Tìm hiểu về giao dịch repo

>>>Tìm hiểu về giao dịch ký quỹ - Margin Trading
>>>Phân tích cơ bản - Fundamental Analysis (FA) là gì?

Hiện nay, nhiều nhà đầu tư rất quan tâm đến nghiệp vụ tách, gộp cổ phiếu. Tách và gộp cổ phiếu là việc làm tăng hoặc giảm số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty cổ phần mà không làm thay đổi vốn điều lệ, vốn cổ phần hay toàn bộ giá trị thị trường tại thời điểm tách hoặc gộp cổ phiếu. Tùy theo mục đích của công ty và tình hình thị trường mà công ty có thể tiến hành tách hay gộp cổ phiếu. Việc tách, gộp cổ phiếu thường được quy định trong điều lệ công ty và do Đại hội cổ đông quyết định, nhưng trong thực tế thường thì Đại hội cổ đông thông qua chủ trương và ủy quyền cho Hội đồng quản trị lựa chọn thời điểm thích hợp tiến hành việc tách hoặc gộp cổ phiếu.

Tách cổ phiếu sẽ làm tăng số lượng cổ phiếu đang lưu hành và làm giảm mệnh giá cổ phiếu tương ứng với tỷ lệ tách, do đó giá cổ phiếu trên thị trường cũng sẽ giảm tương ứng và giao dịch được thực hiện dễ dàng hơn. Việc tách cổ phiếu thường được thực hiện khi giá cổ phiếu trên thị trường tăng quá cao làm cho các giao dịch sẽ khó thực hiện và điều này sẽ làm giảm tính thanh khoản của cổ phiếu. Vì vậy, khi giá cổ phiếu tăng cao trên thị trường thì việc tách cổ phiếu là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch cổ phiếu, đồng thời sau khi tách giá cổ phiếu thường có xu hướng tăng lên. Mặt khác, sau khi tách cổ phiếu, số lượng cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tăng lên có thể làm tăng số lượng cổ đông của công ty, qua đó góp phần làm hạn chế khả năng công ty bị thâu tóm.

Ví dụ, một công ty cổ phần ABC có 1 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu (tổng giá trị niêm yết là 10 tỷ đồng) và giá thị trường tại thời điểm hiện tại là 100.000 đồng/cổ phiếu. Công ty tiến hành tách cổ phiếu theo tỷ lệ 1:2 (nghĩa là người sở hữu 1 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 2 cổ phiếu mới, khi đó tổng số cổ phiếu mới của công ty sẽ là 2 triệu cổ phiếu mệnh giá 5.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị niêm yết vẫn là 10 tỷ đồng nhưng giá thị trường của cổ phiếu mới sẽ dao động ở mức 50.000 đồng/cổ phiếu.

Ngược lại, trường hợp gộp cổ phiếu sẽ làm giảm số lượng cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá cổ phiếu tăng lên và giá thị trường của cổ phiếu cũng tăng lên tương ứng với tỷ lệ gộp cổ phiếu. Theo thống kê ở các nước thì trường hợp gộp cổ phiếu thường ít khi xảy ra đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán bởi vì mục đích duy nhất của việc gộp cổ phiếu là làm cho cổ phiếu đó có giá trị hơn trên thị trường và qua đó làm tăng tính thanh khoản của cổ phiếu.

Ví dụ, công ty cổ phần DEF có 6 triệu cổ phiếu đang lưu hành, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu, tổng giá trị niệm yết là 60 tỷ đồng và giá thị trường đang ở mức 12.000 đồng/cổ phiếu. Để tránh cho giá cổ phiếu của công ty giảm xuống thấp hơn mệnh giá, công ty cổ phần DEF tiến hành gộp cổ phiếu theo tỷ lệ 3:1 (nghĩa là cổ đông sở hữu 3 cổ phiếu cũ sẽ nhận được 1 cổ phiếu mới). Như vậy sau khi gộp, tổng số cổ phiếu mới của công ty là 2 triệu cổ phiếu, với mệnh giá 30.000 đồng/cổ phiếu và giá thị trường của cổ phiếu mới sẽ dao động quanh mức giá 36.000 đồng/cổ phiếu.
Nguồn: Sưu tầm
[Continue reading...]

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2013

Giới thiệu chung về Cộng đồng Ngân hàng & Nguồn nhân lực - U&Bank (ub.com.vn)

- 0 nhận xét
Trong những năm gần đây, với chính sách vĩ mô cởi mở và xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, các Ngân hàng Thương mại cổ phần (sau đây gọi tắt là NHTM) trong nước càng ngày càng phát triển lớn mạnh cả về mặt chất và lượng. Cùng với con số lợi nhuận ấn tượng là số lượng các chi nhánh, PGD mở mới ngày càng nhiều, đi đôi với đó là nhu cầu về nhân sự ngày càng lớn. Với đặc thù của ngành Ngân hàng là kinh doanh với chữ Tín được đặt lên hàng đầu nên chất lượng nhân sự (cùng với cở sở vật chất kỹ thuật) là một trong những yếu tố then chốt dẫn tới sự thành bại của một chiến lược kinh doanh.
Một thực tế đang diễn ra trong ngành Ngân hàng là nhân sự vừa thừa vừa thiếu, độ biến động cao và chất lượng đầu vào chưa được ổn định.

Nguyên nhân của thực tế này bắt nguồn từ 03 yếu tố:

  1. Từ phía Ngân hàng – Nhà tuyển dụng (NTD): Áp lực doanh số, lợi nhuận và mạng lưới đã làm cho một số ngân hàng “không kịp trở tay” trong việc tuyển dụng và đào tào nhân sự, nhân sự lòng cốt bị dàn mỏng, không có thời gian đào tạo tại chỗ. Việc đào tạo tập trung còn hạn chế, chủ yếu theo đợt tuyển dụng lớn trong năm, chưa bắt kịp nhu cầu về nhân sự làm được việc ngay tại các Đơn vị kinh doanh.
  2. Từ phía nguồn nhân sự - Ứng viên (ƯV): Số lượng sinh viên khối Kinh tế - chuyên ngành Tài chính, Ngân hàng, Kế toán & Kiểm toán … phù hợp với các yêu cầu cơ bản của NTD nhiều nhưng chất lượng chưa đồng đều. Bản thân ứng viên chưa được định hướng nghề nghiệp rõ ràng từ nhà trường, dẫn tới tình trạng không nắm rõ khả năng bản thân cũng như không định hướng được tương lai nghề nghiệp cho mình… dẫn tới thực trạng khi ra trường, sẽ giải hồ sơ hàng loạt, đỗ vị trí nào, làm vị trí đó, một thời gian sau thấy không phù hợp lại bỏ hoặc chuyển, đây là một nhân tố dẫn tới tình trạng bất ổn định về nhân sự trong ngành.
  3. Nguyên nhân khách quan khác: Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là sự thiếu hụt thông tin giữa NTD và ƯV. Đa phần sinh viên mới ra trường đều bỡ ngỡ, không hiểu rõ mô hình và môi trường làm việc thực tế của các Ngân hàng. Với đặc thù kinh doanh tiền tệ, trên website chính thức của NH cũng không thể công bố hết tất cả các thông tin liên quan một cách chi tiết, khiến các ƯV mới ra trường rất bỡ ngỡ.
I/ MỤC ĐÍCH - Ý NGHĨA:

Với tham vọng xây dựng một
sân chơi dành cho banker và những bạn đã hoặc mong muốn làm việc trong lĩnh vực Ngân hàng, ngày 17/01/2010 U&Bank Forums chính thức được setup bởi các thành viên sáng lập dưới sự tư vấn giám sát của Ban tư vấn - những chuyên gia cao cấp trong ngành Ngân hàng hiện đã và đang đảm nhận nhiều vị trí quan trọng trong các Ngân hàng trong và ngoài nước.

Với
kết cấu hướng tới người sử dụng, tối thượng lợi ích thành viên, chúng tôi hi vọng sẽ mang đến cho các bạn đồng nghiệp và đặc biệt là đồng nghiệp tương lai cái nhìn tổng quan nhất về hệ thống Ngân hàng TM tại Việt nam cũng như các bài viết, bài phân tích chuyên sâu về các nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại.

Cũng với kết cấu này, chúng tôi luôn luôn chào đón và tối quan trọng những ý kiến đóng góp của các anh/chị banker đi trước với một mục tiêu duy nhất:
Cùng chia sẻ - Cùng tiến bộ; Tre già - Măng mọc; Xây dựng cộng đồng Bankers lớn mạnh cả về chất & lượng!

II/ KẾT CẤU NỘI DUNG SỐ:

Cộng đồng là
sân chơi để các banker trao đổi kinh nghiệm, cùng nhau tiến bộ thông qua các Box nghiệp vụ như: Nghiệp vụ Tín dụng; Nghiệp vụ Kế toán - Ngân quỹ; Nghiệp vụ Thanh toán Quốc tế; Nghiệp vụ về Tài sản đảm bảo & định giá; Nguồn vốn & ALM ; Kiểm soát Nội bộ - Kiểm toán Nội bộ - QLRRcácNghiệp vụ bổ trợ

Không chỉ thế, nhằm chọn lọc và cập nhật tin tức về Chính sách mới, văn bản mới nói riêng, cũng như Tin tức ngành Ngân hàng nói chung, UB cũng sẽ thay các bạn, cập nhật tin tức ngành Ngân hàng thông quan Box
Tin tức Ngân hàng; cập nhật Thông tin tuyển dụng của các Ngân hàng hàng ngày thông qua box Ngân hàng Tuyển dụng

III/ CÁC HOẠT ĐỘNG OFFLINE:

Một nỗ lực vượt bậc so với các phiên bản trước
: Ngoài việc tư vấn Thi vào Ngân hàng miễn phí (Online) cho thành viên, chúng tôi sẽ tích cực hơn trong vai trò là Cầu nối giữa Ngân hàng và Nguồn nhân lực. Cụ thể, UB sẽ có các hoạt động giới thiệu việc làm, sơ tuyển, thi thử (miễn phí) cho các thành viên của Diễn đàn. Dự kiến UB sẽ tổ chức thêm lớp Offline tại khu vực Hà Nội - TP Hồ Chí Minh và cải tiến triệt để cách thức tổ chức các lớp Online để đạt hiệu quả cao nhất ....

Cụ thể:

  1. Nằm trong kế hoạch phát triển giai đoạn 2011 - 2015 U&Bank đã triển khai Chương trình Đào tạo Nghiệp vụ Ngân hàng cộng đồng với chi phí thấp, được đào tạo bởi những Chuyên gia Ngân hàng hàng đầu theo mô hình chuẩn quốc tế, đáp ứng được phương châm "Cầm tay chỉ việc" - đảm bảo sau khi được đào tạo, học viên có thể tác nghiệp được NGAY.
  2. Với tham vọng trở thành Cộng đồng Ngân hàng & Nguồn nhân lực lớn nhất tại Việt nam đến năm 2013, hàng loạt các hoạt động đã được triển khai như: Các hoạt động thực hành mô hình ngân hàng, hội thảo nghề nghiệp, các chương trình tuyển dụng trực tiếp chỉ có tại U&Bank.... Các bài test online, thi thử vào ngân hàng hàng miễn phí liên tục được tổ chức, dịch vụ review CV miễn phí cũng đã trở thành hoạt động hàng ngày của U&Bank.
  3. Để các bạn sinh viên năm cuối có thể tiếp cận với U&Bank dễ dàng hơn, hàng loạt CLB U&Bank tại các trường đại học danh tiếng đã được thành lập và bước đầu đi vào hoạt động với các chương trình thiết thực, gắn liền với sinh viên các trường đại học.
IV/ THÔNG TIN CHUNG:
1. Thông tin truy cập:
Tên gọi: U&Bank – Cộng đồng Ngân hàng & Nguồn Nhân lực;

Website: http://ub.com.vn; Email: info@ubgroup.vn; Y!M: ub.vietnam


2. Mục tiêu:
Trở thành Cộng đồng chuyên ngành Ngân hàng & Nguồn nhân lực ngành Ngân hàng lớn nhất Việt Nam vào nằm 2013.
3. Giá trị cốt lõi:

Lấy cộng đồng làm nòng cốt – xây dựng và phát triển dựa trên quan điểm nhân văn CHONHẬN

V/ THÔNG TIN HỖ TRỢ
:

Nếu có bất kỳ thắc mắc, đóng góp cho diễn đàn, các bạn có thể post trực tiếp tại box Hòm thư góp ý hoặc:
  1. Email: info@ubgroup.vn; hung.vv@ubgroup.vn (C.E.O)
  2. Y!M: ub.vietnam; ub.vietnam1; ub.vietnam2; ub.vietnam3
Và điều cuối cùng, xin đừng quên, hãy giới thiệu cho bạn bè diễn đàn này để việc chia sẻ của chúng ta có ý nghĩa hơn.

Trân trọng cảm ơn anh/chị và các bạn đã tham gia diễn đàn.


Thay mặt Hội đồng sáng lập
[Continue reading...]

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?

- 0 nhận xét
Tuy mới ra đời 20 năm nhưng ngành đầu tư ETF (đầu tư chỉ số) thực sự phát huy hiệu quả.

>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund

>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?

>>>Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)
>>>Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF


1. ETF là gì?

ETF (Exchange Traded Fund) là một hình thức quỹ đầu tư chỉ số. Danh mục của ETF gồm một rổ chứng khoán có cơ cấu như cơ cấu của chỉ số mà nó mô phỏng.

Theo đó, nhà quản lý quỹ không cần tích cực tái cơ cấu danh mục của quỹ mà chỉ cần bám sát theo rổ chứng khoán của chỉ số mục tiêu.

ETF không hoàn toàn là một công cụ đầu tư an toàn với lợi nhuận thấp và chắc chắn, nhưng cũng không phải là một sản phẩm rủi ro hứa hẹn lợi nhuận cao. Đây là một dạng đầu tư tương tự như đầu tư danh mục nhưng có chi phí thấp và suất sinh lời ngang với mức sinh lời của thị trường.

2. Lợi ích của ETF


Đối với nhà đầu tư, ETF là một hình thức quỹ mở nhưng thừa kế cả ưu điểm của quỹ đóng và mở đồng thời hạn chế nhược điểm của 2 loại quỹ này. Do đó, ETF có tính minh bạch cao hơn, phù hợp với nhiều nhà đầu tư và có danh mục đầu tư đa dạng.

Đối với nền kinh tế
, thứ nhất, quỹ ETF chứng khoán có thể là một công cụ hiệu quả để xử lý nợ xấu và sở hữu chéo. Ví dụ, tại Nhật Bản, những năm 1990, nền kinh tế vô cùng khó khăn, thị trường chứng khoán giảm mạnh, khiến cổ phiếu bất động sản và cổ phiếu trong danh mục đầu tư của các ngân hàng đồng loạt giảm mạnh. Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Nhật Bản đã cho phép hình thành các quỹ ETF và các quỹ đầu tư bất động sản, thực chất là việc chứng khoán hóa các tài sản (nợ xấu, sở hữu chéo) trong hệ thống ngân hàng.

Động thái này giúp cải thiện đáng kể chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng, tăng tỷ lệ an toàn tài chính, giảm nợ xấu, từ đó tăng khả năng cung tín dụng của cả hệ thống ngân hàng. Giá trị tài sản của các quỹ ETF này cũng tăng mạnh qua các năm, góp phần xử lý một khối lượng lớn tài sản đọng trong hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, quỹ ETF còn là công cụ phòng chống khủng hoảng. Điển hình là sự ra đời và can thiệp của chính quyền Hong Kong nhằm chống đầu cơ tiền tệ trong giai đoạn khủng hoảng tài chính ở châu Á.

Nhà đầu cơ nước ngoài giữ vị thế bán hợp đồng tương lai chỉ số trong giai đoạn 1997-1998, gây áp lực khiến thị trường chứng khoán Hong Kong HSI sụt giảm mạnh buộc chính quyền Hong Kong phải mua danh mục chứng khoán cấu thành chỉ số HSI nhằm chặn đà giảm của chỉ số, hạn chế đầu cơ phái sinh và đầu cơ tỷ giá của giới đầu cơ nước ngoài.

Thứ ba, tăng tính hấp dẫn cho thị trường chứng khoán đặc biệt là thị trường thứ cấp. Tạo ra sản phẩm đầu tư minh bạch, cơ chế giao dịch linh hoạt, đa dạng hóa rủi ro và được quản lý chuyên nghiệp; giúp thị trường chứng khoán thu hút thêm nhà đầu tư mới, dòng vốn mới trên thị trường thứ cấp, tạo sự lan tỏa dễ thu hút thêm nguồn vốn cho nền kinh tế qua thị trường sơ cấp.

Thứ tư, thay đổi hành vi và văn hóa đầu tư. Thay vì thực hiện đầu tư vào từng mã chứng khoán riêng biệt, đòi hỏi nhiều thời gian để phân tích thị trường và thời điểm giao dịch. Điều này ngày càng trở nên khó khăn hơn khi số lượng cổ phiếu niêm yết ngày một nhiều hơn, thậm chí lên tới hàng nghìn mã cổ phiếu.

Với sản phẩm quỹ ETF, nhà đầu tư sẽ đầu tư vào một rổ chỉ số, dễ theo dõi và phù hợp với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, không chuyên nghiệp hoặc các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư tổ chức (quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm). Ngoài ra, việc đầu tư vào rổ chứng khoán (đầu tư theo chỉ sổ) cũng hạn chế hiện tượng thị trường bị lạm dụng, thao túng.

Thứ năm
, thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt do cơ chế quỹ mở, nhà đầu tư nước ngoài không bị hạn chế sở hữu số lượng chứng chỉ quỹ nắm giữ. Tuy nhiên, việc nhà đầu tư nước ngoài khi nhận lại danh mục cơ cấu, thì sẽ phải bán ra nếu vượt tỷ lệ sở hữu, sẽ vẫn giúp duy trì việc quản lý tỷ lệ sở hữu tại các tổ chức phát hành.

Nguồn: Vietstock
[Continue reading...]

Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund

- 0 nhận xét
>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?
>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?
>>>Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)
>>>Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF


Quỹ ETF hoạt động ra sao?


Quỹ hoán đổi danh mục (ETF, exchange traded fund) là quỹ đầu tư nắm giữ các loại tài sản như cổ phiếu, hàng hóa, hoặc trái phiếu; và được giao dịch trên thị trường chứng khoán gần với giá trị tài sản ròng ( NAV ) trong suốt phiên giao dịch.

Hầu hết các quỹ ETF hoạt động dựa trên một chỉ số tham chiếu, như chỉ số chứng khoán hoặc chỉ số trái phiếu. Quỹ ETF có thể được phân loại theo dạng quỹ mở hay quỹ ủy thác đầu tư (UIT, unit investment trust – hoạt động trong một thời gian xác định và danh mục cố định), nhưng khác với các loại quỹ truyền thống ở một số khía cạnh sau:

(1) Quỹ ETF không bán chứng chỉ quỹ riêng lẻ trực tiếp cho nhà đầu tư, mà chỉ phát hành theo lô lớn. Dự thảo Thông tư hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ ETF hiện đưa ra quy định một lô đơn vị quỹ ETF bao gồm tối thiểu 1,000,000 đơn vị quỹ ETF.

(2) Nhà đầu không mua lô đơn vị quỹ bằng tiền, mà thay vào đó mua các lô đơn vị quỹ ETF bằng danh mục chứng khoán cơ cấu – mô phỏng theo danh mục của chỉ số tham chiếu đã được chấp thuận. Các nhà đầu tư trực tiếp mua các lô đơn vị quỹ thường là những tổ chức đầu tư và các đơn vị tạo lập quỹ. Đây là hoạt động trên thị trường sơ cấp.

(3) Sau khi mua các lô đơn vị quỹ, nhà đầu tư thường chia nhỏ ra và bán các chứng chỉ quỹ ETF trên thị trường thứ cấp. Điều này cho phép các nhà đầu tư khác mua các đơn vị quỹ riêng lẻ, thay vì mua lô lớn trên thị trường sơ cấp.

(4) Nhà đầu tư muốn bán chứng chỉ quỹ sẽ có hai sự lựa chọn: (i) bán chứng chỉ quỹ riêng lẻ cho các nhà đầu tư khác trên thị trường thứ cấp, hoặc (ii) bán các lô đơn vị quỹ ngược lại cho quỹ ETF. Theo quy định, quỹ ETF sẽ mua lại các lô đơn vị quỹ bằng danh mục chứng khoán cơ cấu, thay vì tiền mặt.

Chứng chỉ quỹ ETF được định giá như thế nào?

Tổ chức phát hành tính toán và công bố giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ ETF hàng ngày, dựa vào giá đóng cửa của chứng khoán cơ cấu trong danh mục sau khi cộng vào các lệ phí và chi phí.

Trong phiên giao dịch, thị giá chứng chỉ quỹ có thể thay đổi liên tục do sự dao động của giá cổ phiếu trong danh mục đầu tư hay nhu cầu của nhà đầu tư.

Tuy nhiên, cơ chế kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) thường giữ thị giá chứng chỉ quỹ ETF gần với NAV của nó; cụ thể:

• Nếu giá ETF cao hơn giá trị NAV, thì người tham gia kinh doanh arbitrage có thể mua các chứng khoán cơ cấu để đổi lấy đơn vị quỹ ETF và bán nó trên thị trường chứng khoán để kiếm lợi nhuận.

• Nếu giá ETF thấp hơn giá trị NAV, thì người tham gia kinh doanh arbitrage có thể mua các đơn vị quỹ ETF trên thị trường chứng khoán để đổi lấy chứng khoán cơ cấu, và sau đó bán những cổ phiếu riêng lẻ trên thị trường để kiếm lợi nhuận.

Hoạt động arbitrage giữa các thành viên lập quỹ và tổ chức tạo lập thị trường sẽ đảm bảo giá chứng chỉ quỹ ETF liên hệ chặt chẽ với giá của các chứng khoán cơ cấu.

Điều gì quyết định tính thanh khoản của chứng chỉ quỹ ETF?

Quỹ ETF ra đời được xem là giải pháp thay thế có tính thanh khoản cao hơn so với các quỹ tương hỗ.

Các nhà đầu tư tổ chức đủ điều kiện hoạt động trên cả thị trường sơ cấp sẽ dễ dàng tránh được vấn đề thanh khoản thông qua hoạt động mua/bán trực tiếp các lô đơn vị quỹ với quỹ ETF ngay trong phiên; trong khi, các nhà nhà đầu tư khác sẽ giao dịch trên thị trường thứ cấp.

Tuy nhiên, thanh khoản của chứng chỉ quỹ ETF có thể bị ảnh hưởng bởi một số các nhân tố sơ cấp và thứ cấp khác nhau. Những nhân tố sơ cấp bao gồm danh mục đầu tư của quỹ ETF và khối lượng giao dịch của chứng khoán cơ cấu. Những nhân tố thứ cấp bao gồm khối lượng giao dịch của chứng chỉ quỹ và điều kiện thị trường.

Danh mục đầu tư của quỹ ETF. Một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn nhất đến tính thanh khoản quỹ ETF là các khoản mục đầu tư của quỹ. Nếu các tài sản đầu tư được giao dịch tự do và dễ dàng, thì chứng chỉ quỹ ETF cũng dễ dàng giao dịch.

Tùy vào mục đích khi thành lập quỹ, các quỹ ETF có thể đầu tư vào các chỉ số cụ thể như vốn hóa lớn, trung bình, nhỏ, tăng trưởng hay chỉ số giá trị… Thông thường, các quỹ ETF đầu tư vào các cổ phiếu vốn hóa lớn được niêm yết trên TTCK sẽ có tính thanh khoản cao hơn.

Khối lượng giao dịch của chứng khoán cơ cấu. Khối lượng giao dịch là kết quả trực tiếp giữa cung và cầu; do đó những cổ phiếu có rủi ro thấp thường được mua bán nhiều hơn. Vì vậy, quỹ ETF đầu tư vào những mã cổ phiếu giao dịch nhiều sẽ có tính thanh khoản cao hơn.

Khối lượng giao dịch của chứng chỉ quỹ. Số lượng nhà đầu tư quan tâm đến chứng chỉ quỹ cũng có tác động lên tính thanh khoản của quỹ ETF. Sự sẵn sàng tham gia giao dịch sẽ làm tăng khối lượng, và theo đó làm gia tăng thanh khoản.

Môi trường đầu tư. Mức độ rủi ro của môi trường đầu tư có thể ảnh hưởng mạnh đến thanh khoản quỹ ETF. Nếu quỹ đầu tư vào một nhóm ngành rủi ro, trong giai đoạn kinh tế khủng hoảng hay tại một thị trường rủi ro sẽ khó thu hút được sự tham gia của nhiều nhà đầu tư.
Nguồn: Baomoi
[Continue reading...]

Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?

- 0 nhận xét
Có thể thấy, hiện hai quỹ ETF là FTSE Vietnam Index ETF và Market Vectors Vietnam ETF đã trở nên quen thuộc với nhà đầu tư Việt Nam. Hai quỹ ETF mới là MSCI Frontier Markets Index ETF đã xuất hiện gần đây cùng iShares MSCI Vietnam Investable Market Index Fund ETF sẽ thành lập trong thời gian tới cũng đang được kỳ vọng. Với những ưu điểm như khả năng phân tán rủi ro tốt và cơ chế hoạt động như một quỹ mở, các quỹ đầu tư chỉ số (ETF) dần khẳng định tên tuổi và có thời điểm “làm mưa làm gió” trên TTCK Việt Nam.

>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund

>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?
>>>Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)

>>>Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF


1. FTSE Vietnam Index ETF

FTSE Vietnam Index ETF là quỹ đầu tư chỉ số đầu tiên tại Việt Nam được Deutsche Bank AG thành lập vào ngày 15/01/2008 với số vốn ban đầu là 5.1 triệu USD. Quỹ ETF này mô phỏng FTSE Vietnam Index, một trong hai chỉ số do FTSE Group xây dựng từ ngày 26/04/2007.

Cụ thể, FTSE Group đã xây dựng hai chỉ số chứng khoán đối với thị trường Việt Nam thuộc FTSE Vietnam Index Series. Chỉ số thứ nhất là FTSE Vietnam All-Share Index, gồm các cổ phiếu chiếm đến 90% giá trị vốn hóa thị trường (trước khi điều chỉnh trọng số đầu tư). Chỉ số thứ hai là FTSE Vietnam Index, có thể dùng để đầu tư, gồm các chứng khoán thuộc FTSE Vietnam All-Share Index và còn room nước ngoài.

Tiêu chí thêm/bớt cổ phiếu:
Việc đảo danh mục của FTSE Vietnam Index không phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản của doanh nghiệp mà dựa trên vốn hóa, thanh khoản của cổ phiếu và room còn lại cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, một cổ phiếu sẽ bị loại khỏi danh mục nếu tỷ lệ NĐTNN có thể mua bán được giảm xuống dưới 2%.

Thời gian điều chỉnh danh mục chỉ số:




  • Ngày công bố: Ngày Thứ Sáu đầu tiên của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày thực hiện: Ngày Thứ Sáu thứ ba của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày có hiệu lực: Ngày Thứ Hai của tuần tiếp theo Ngày thực hiện


Danh sách cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số:



  • Chỉ số FTSE Vietnam All-Share Index: 42 cổ phiếu
  • FTSE Vietnam Index: 24 cổ phiếu



2. Market Vectors Vietnam ETF (V.N.M)


Quỹ Market Vectors Vietnam ETF (V.N.M) được công ty quản lý đầu tư Van Eck Global thành lập với số vốn ban đầu 14 triệu USD. Đến ngày 05/09/2012, tổng tài sản đang quản lý của V.N.M đã lên tới 276.7 triệu USD. V.N.M đầu tư ít nhất 80% tổng tài sản vào các cổ phiếu tạo nên chỉ số Market Vectors Vietnam Index do công ty 4asset-management GmbH thành lập ngày 24/11/2008.

Market Vectors Vietnam Index sẽ nhắm đến bao quát khoảng 90% giá trị vốn hóa thị trường đã được điều chỉnh theo số cổ phiếu tự do chuyển nhượng với ít nhất 25 nhưng không quá 75 cổ phiếu thành phần. Đây là cổ phiếu của các công ty niêm yết đang hoạt động tại Việt Nam và có doanh thu nội địa chiếm ít nhất 50% tổng doanh thu.

Tiêu chí thêm/bớt cổ phiếu: Tương tự FTSE Vietnam Index ETF, việc đảo danh mục của V.N.M dựa trên vốn hóa, thanh khoản của cổ phiếu và room còn lại cho nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, một cổ phiếu sẽ bị loại khỏi danh mục nếu tỷ lệ NĐTNN có thể mua bán được giảm xuống dưới 5%.

Thời gian điều chỉnh danh mục chỉ số:

  • Ngày công bố: Ngày Thứ Sáu thứ hai của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày thực hiện: Ngày Thứ Sáu thứ ba của tháng cuối quý (tháng 3, 6, 9, và 12)
  • Ngày có hiệu lực: Ngày Thứ Hai của tuần tiếp theo Ngày thực hiện


Danh sách cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số:
(20/29)



3. MSCI Frontier Markets Index ETF

Được MSCI thành lập vào ngày 30/11/2007, MSCI Frontier Markets Index là chỉ số phát triển dựa trên vốn hóa thị trường đã điều chỉnh theo khối lượng tự do chuyển nhượng, thể hiện hoạt động của các thị trường cổ phiếu sơ khai. Tính đến ngày 31/07/2012, MSCI Frontier Markets Index gồm 147 cổ phiếu thành viên có vốn hóa lớn và vừa của 25 thị trường sơ khai, đại diện cho khoảng 84% vốn hóa thị trường đã điều chỉnh theo khối lượng tự do chuyển nhượng tại mỗi quốc gia.

25 thị trường sơ khai có cổ phiếu lọt vào rổ tính MSCI Frontier Markets Index là Argentina, Bahrain, Bangladesh, Bulgaria, Croatia, Estonia, Jordan, Kenya, Cô-oét, Lebanon, Lithuania, Kazakhstan, Mauritius, Nigeria, Oman, Pakistan, Qatar, Romania, Serbia, Slovenia, Sri Lanka, Tunisia, Ukraine, Các tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) và Việt Nam.

Trong đó, Việt Nam vừa trở thành quốc gia thứ 4 của châu Á có cổ phiếu được MSCI lựa chọn đầu tư khi TCT Khí Việt Nam - CTCP (HOSE: GAS) được bổ sung vào rổ tính MSCI Frontier Markets Index trong đợt xem xét tháng 8/2012. Được biết trong lần xem xét này, MSCI không loại bỏ bất kỳ cổ phiếu nào.

Hiện chỉ số MSCI Saudi Arabia Index của Ả rập Xê-út không nằm trong MSCI Frontier Markets Index nhưng là một phần của chỉ số các quốc gia thuộc hội đồng hợp tác vùng vịnh - MSCI Gulf Cooperation Council (GCC) Countries Index. Trong khi đó, MSCI Bosnia Herzegovina Index, MSCI Botswana Index, MSCI Ghana Index, MSCI Jamaica Index, MSCI Trinidad & Tobago và MSCI Zimbabwe Index là các chỉ số quốc gia độc lập và cũng không nằm trong MSCI Frontier Markets Index. Kế hoạch đưa các chỉ số này vào MSCI Frontier Markets Index đang được MSCI cân nhắc.

MSCI là tổ chức cung cấp các công cụ hỗ trợ quyết định đầu tư trên toàn thế giới, bao gồm các chỉ số, các báo cáo phân tích về hoạt động và rủi ro của danh mục đầu tư, các dịch vụ quản trị doanh nghiệp.

Danh sách cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số: GAS

Thời gian điều chỉnh danh mục chỉ số: Chỉ số này tiến hành cơ cấu danh mục định kỳ hàng quý vào tháng 2, tháng 5, tháng 8 và tháng 11 nhằm kịp thời phản ánh những thay đổi của các thị trường cổ phiếu cơ sở trong khi hạn chế việc thanh hoán không phù hợp.

Trong đợt xem xét định kỳ giữa năm vào tháng 5 và tháng 11, MSCI sẽ cân đối chỉ số và tính lại tỷ trọng tối đa đối với cổ phiếu vốn hóa lớn và vừa.

4. iShares MSCI Vietnam Investable Market Index Fund ETF (chờ phê chuẩn)

Tháng 12/2011, iShares - công ty quản lý quỹ ETF lớn nhất thế giới - quyết định nộp đơn lên UBCK Mỹ (SEC) để thành lập quỹ chỉ số TTCK Việt Nam mang tên “iShares MSCI Vietnam Investable Market Index Fund”. Quỹ ETF này sẽ mô phỏng chỉ số MSCI Vietnam Investable Market Index, bao gồm các cố phiếu thuộc ba lĩnh vực tài chính, công nghiệp và vật liệu đang giao dịch trên HOSE và HNX.

Tuy nhiên, trong hồ sơ gửi lên SEC, iShares vẫn chưa xác định danh sách các mã cổ phiếu này.

Nếu được SEC thông qua, iShares MSCI Vietnam Investable Market Index có thể khôi phục niềm tin của NĐTNN vào chứng khoán Việt Nam và đem lại động lực to lớn cho thị trường cho nhờ danh tiếng của iShares.

Theo: Phước Phạm (Vietstock) - FFN
[Continue reading...]

Quá trình tạo lập và phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ)

- 0 nhận xét
Trên thế giới, quỹ ETF (Exchange traded Fund - quỹ hoán đổi danh mục) phát triển rất nhanh trong những năm gần đây. Riêng khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện đã có hơn 250 quỹ này. Điều gì khiến quỹ ETF hấp dẫn NĐT?

>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?

>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund
>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?

Hầu hết ETF là quỹ đầu tư theo chỉ số

ETF là loại quỹ mở, nhưng khác ở chỗ chứng chỉ quỹ (CCQ) được khớp lệnh liên tục trong suốt các phiên giao dịch trên sàn chứng khoán tập trung giống như các cổ phiếu, chứ không chỉ giao dịch định kỳ vài ba lần trong tháng thông qua một tổ chức trung gian là các đại lý phân phối như các quỹ mở khác. Do đó, ETF bảo đảm tính thanh khoản cao và nhờ có sự gắn kết với yếu tố thị trường nên khá hấp dẫn NĐT.

Số lượng CCQ của ETF không cố định như quỹ đóng, mà tùy theo quan hệ cung cầu có thể được phát hành bổ sung, hay tạm ngừng nếu số lượng phát hành quá lớn gây khó khăn cho công việc quản lý.

Trên thị trường sơ cấp, ETF không phát hành các CCQ đơn lẻ, mà phát hành thành từng đơn vị chứng chỉ có khối lượng lớn, từ vài chục ngàn đến hàng trăm ngàn. Các đơn vị này được gọi là một “rổ cổ phiếu”. Việc giao dịch các “rổ cổ phiếu” tại trị trường sơ cấp sẽ do các định chế tài chính lớn đảm nhiệm, vì NĐT nhỏ lẻ khó có tiềm lực tài chính để đảm đương công việc này.

Hầu hết quỹ ETF là quỹ đầu tư theo chỉ số, tức là các cổ phiếu của quỹ (danh mục đầu tư của quỹ) luôn bám sát giá trị của một chỉ số nào đó do tổ chức phát hành quỹ lựa chọn như chỉ số S&P 500 (Mỹ), chỉ số Nikkei 225 (Nhật Bản), chỉ số FTSE (Anh), hay chỉ số VN30 của Việt Nam. Đó là những chỉ số lớn phản ảnh kết quả hoạt động tài chính của cả thị trường. Tuy nhiên, cũng có những quỹ ETF chỉ đầu tư theo chỉ số của một ngành hay một liên ngành trong phạm vi hẹp như công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, bất động sản, hoặc đầu tư vào lĩnh vực tiền tệ như USD, EUR, yên, hoặc đầu tư vào lĩnh vực hàng hóa như vàng, bạc, dầu thô, lúa gạo. Như vậy, quỹ ETF rất đa dạng, phong phú và không những chỉ có quỹ đối với cổ phiếu, mà còn có các quỹ ETF đối với trái phiếu hay đối với hàng hóa, tiền tệ.

Cho đến cuối năm 2011, trên thế giới đã có 1.134 quỹ ETF, với tổng giá trị vốn hóa hơn 1.048 tỷ USD. Riêng ở khu vực châu Á -Thái Bình Dương có hơn 250 quỹ ETF, với tổng giá trị tài sản trên 70 tỷ USD; trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philippines, Hồng Kông và Trung Quốc. Một số nước như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philippines còn hình thành các quỹ liên kết để kinh doanh quỹ ETF của nước mình nhưng theo chỉ số của nước ngoài như chỉ số FTSE của Anh quốc. Tại Việt Nam, quỹ ETF đang được xây dựng theo chỉ số FTSE.





Quá trình tạo lập và phát hành quỹ


Trong quá trình này (xem sơ đồ), tổ chức phát hành quỹ có trách nhiệm toàn bộ đối với quỹ nhằm bảo đảm việc quản lý và hoạt động quỹ phải tuân thủ các quy định pháp luật, cũng như các điều khoản đã nêu trong bản cáo bạch.

Người ủy thác thường là các định chế tài chính lớn được tổ chức phát hành quỹ ủy thác để thu gom, vay mượn cổ phiếu cơ sở từ các đơn vị tham gia (hoặc có thể thu một phần bằng tiền) rồi gộp lại thành từng rổ cổ phiếu. Sau đó, người ủy thác sẽ trực tiếp đem các rổ cổ phiếu này đổi lấy các đơn vị chứng chỉ phát hành từ tổ chức phát hành quỹ trong thị trường sơ cấp và chào bán trên thị trường thứ cấp để các NĐT có thể mua bán, giống như mua bán cổ phiếu thường.

Hãng cung cấp chỉ số là những cố vấn kỹ thuật chuyên cung cấp các chỉ số quỹ và duy trì các chỉ số đó trong suốt quá trình hoạt động. Ngoài ra, hãng cung cấp chỉ số còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính thanh khoản của quỹ như thường xuyên cung cấp giá mua và giá bán CCQ trên sàn, yêu cầu quỹ phát hành thêm chứng chỉ khi cần thiết để đáp ứng nhu cầu của NĐT.

Ngân hàng giám sát chịu trách nhiệm nắm giữ toàn bộ CCQ để bảo đảm lợi ích cho các NĐT.

Bộ phận lưu ký sẽ chịu trách nhiệm nắm giữ sổ sách, chứng từ, quản lý đăng ký những người nắm giữ chứng chỉ, phân phát chứng chỉ cũng như quản lý thông tin về thuế và các thông tin của NĐT.

Quá trình đổi lại chứng chỉ quỹ

Đây là quá trình ngược lại của quá trình tạo lập kể trên. Các nhà ủy thác sẽ mua lại CCQ từ các NĐT trên sàn khi họ muốn bán lại và hình thành “rổ cổ phiếu cần đổi”, sau đó đem rổ cổ phiếu này để đổi lấy “rổ cổ phiếu mới” từ tổ chức phát hành quỹ. Đó là loại giao dịch “hàng đổi hàng”; có nghĩa là quá trình mua đi đổi lại CCQ giữa tổ chức phát hành và các nhà ủy thác không phải thanh toán bằng tiền và vì thế không phát sinh khoản chịu thuế thu nhập. Đây là một ưu điểm lớn của quỹ. Để thực hiện được công việc đổi lại này thì hàng ngày, tổ chức phát hành quỹ phải công bố danh mục rổ cổ phiếu cần đổi như các mã cổ phiếu và số lượng các mã cổ phiếu để phù hợp với sự thay đổi cơ cấu và giá trị của chỉ số quỹ.

Căn cứ xác định giá trị CCQ

Vì CCQ thường theo sát giá trị của chỉ số nên giá cơ sở của CCQ sẽ tương đương với giá trị của chỉ số. Do vậy, ngay trong ngày đầu tiên kinh doanh CCQ thì người ta cũng dễ dàng thiết lập được giá cơ sở để từ đó quy định giới hạn giá hàng ngày cho CCQ. Khi đó, giá cơ sở của CCQ sẽ là giá của chỉ số vào lúc đóng cửa của ngày hôm trước. Giá này sẽ được công bố trên trang web của sàn chứng khoán trước khi CCQ được giao dịch. Chẳng hạn, khi chỉ số Topix vào ngày hôm trước đạt 1.200 điểm thì giới hạn giá vào ngày hôm sau của CCQ sẽ là từ 1.100 yên đến 1.300 yên, tức là dao động trong khoảng ± 100 yên. Sau đó, giới hạn giá hàng ngày tiếp theo của CCQ được quy định trên cơ sở giá trị chỉ số lúc đóng cửa của ngày hôm trước.
(Còn nữa)
Nguồn: TS. Vũ Quý Hưng / ĐTCK
[Continue reading...]

Quá trình tiến hóa Darwin của các quỹ đầu tư ETF

- 0 nhận xét
Các ETF cũng giống như nhiều sản phẩm các trong ngành tài chính, luôn luôn thay đổi và cạnh tranh đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng.

>>>Những quỹ ETF nào đang hoạt động ở TTCK Việt Nam?
>>>Cơ chế hoạt động của quỹ ETF - Exchange Traded Fund
>>>Quỹ đầu tư ETF- Exchange Traded Fund là gì?

Nếu tiêu chuẩn hóa là một cách để những cải cách tài chính được phổ biến thì sự đột biến lại khác. Bằng cách thử nghiệm mạnh mẽ với các sản phẩm mới, ngành tài chính có thể đạt tới những phép lặp hiệu quả, và một khi điều gì đó giữ lại được, một loạt những thay đổi theo chiều hướng tăng sẽ theo sau khi các hãng cạnh tranh giành khách hàng.

"Bất kỳ ý tưởng tốt nào cũng sẽ ngay lập tức bị sao chép và tuyên truyền như một loại virus", Robert Litan làm việc tại Kauffman Foundation nói. "Nếu nó là một virus xấu thì sau đó bạn sẽ có một đại dịch."

Ngành tài chính có rất ít bằng sáng chế. Phần bán lẻ, có một số nỗ lực nhằm bảo vệ các công nghệ mới, nhưng với các hoạt động kinh doanh thị trường vốn thì đó không phải là một ưu tiên. Trong một xếp hạng các doanh nghiệp toàn cầu nhượng quyền bằng sáng chế tại Mỹ năm 2011, do Cơ quan bằng sáng chế IFI CLAMIMS soạn thảo, hãng tài chính đầu tiên trong danh sách là American Express - xếp vị trí thứ 259.

Lý do có thể là vì trên các thị trường vốn những ý tưởng đòi hỏi thanh khoản tăng lên: càng nhiều tổ chức sao chép một công cụ, thì thanh khoản có thể ngày càng nhiều hơn. Mặt khác, việc sao chép cũng trở nên dễ dàng.

"Một sản phẩm tài chính là khái niệm bạn có thể nhận được," Wilson Ervin, cố vấn cao cấp tại Credit Suise phát biểu. "Bạn chỉ cần giấy và mực." Một bằng sáng chế phải được công bố sau khoảng 1 năm, cho phép các đối thủ thiết kế xung quanh nó. Trong mọi trường hợp, tiền tệ hóa một ý tưởng ngay lập tức mở ra cánh cửa sao chép bởi những yêu cầu công bố thông tin theo luật chứng khoán. Ông Evrin nghĩ rằng các doanh nghiệp phải có khoảng 3 tới 4 tháng trước khi các sản phẩm cạnh tranh xuất hiện. Điều đó chẳng giúp được gì khi khách hàng mua sắm xung quanh để xem liệu họ có thể có được sản phẩm cùng loại với giá rẻ hơn từ hãng khác.

Còn có những rào cản kỹ thuật và văn hóa khi sử dụng các bằng sáng chế, theo Karren Hagberg từ hãng luật Morrison và Foerster. Những mục tiêu cho việc cưỡng chế thực hiện sẽ là các tổ chức tài chính khác và họ e ngại việc kiện lẫn nhâu. Kết quả là, các phiên tòa trước đây yêu cầu đưa ra phán quyết về các trường hợp vi phạm bằng sáng chế khá ít trong ngành dịch vụ tài chính. Nếu không tồn tại một cơ quan lập pháp cung cấp một số cái nhìn sâu sắc về việc các phiên tòa sẽ quyết định các vấn đề có liên quan thế nào trong tương lai, chẳng hạn như những gì cấu thành hành vi xâm phạm và làm thế nào để tính toán thiệt hại, việc yêu cầu các luật sư mang rủi ro cao hơn. Thay vào đó, các sản phẩm được cho phép nhân lên, biến đổi theo tốc độ của riêng mình, và không phải lúc nào cũng theo hướng lành mạnh.

Một vài công cụ để đóng gói sự biến đổi của các sản phẩm tài chính như các quỹ giao dịch chỉ số (ETF). Không một ai có thể nói xấu khái niệm này. Được Sở giao dịch chứng khoán Toronto cho ra đời vào cuối những năm 1980, ETF về bản chất là một quỹ tương hỗ giá rẻ: một rổ các chứng khoán dõi theo một chỉ số, được gói trong một cấu trúc quỹ và được niêm yết trên sàn giao dịch để nhà đầu tư có thể mua vào bán ra bất cứ khi nào họ muốn. Chúng rẻ và hiệu quả về thuế, chúng cho phép các nhà đầu tư nhỏ lẻ tiếp cận các danh mục đầu tư tài sản đa dạng vốn trước đây chỉ là của riêng các nhà đầu tư tổ chức.

Mặc dù vậy, sản phẩm không ngay lập tức có được đà tăng trưởng. Theo Dan Draper, người điều hành hoạt động kinh doanh ETF của Credit Suisse, dấu hiệu tăng trưởng ngoạn mục chỉ xuất hiện sau khi bong bóng dotcom sụp đổ chỉ ra tầm quan trọng của việc đa dạng hóa. Sự gia tăng tư vấn tài chính dựa trên phí cũng đẩy nhiều nhà đầu tư hơn về phía các ETF. Trong những năm gần đây, công cụ này đã tạo dựng cho mình động lực to lớn, và khủng hoảng tài chính 2007 - 2008 cũng chẳng làm chậm tốc độ của nó. Số lượng các ETF trện thị trường Mỹ mọc lên như nấm, từ 343 năm 2006 lên tới 1.098 vào tháng 12/2011.

Một báo cáo gần đây của McKinsey dự báo rằng các tài sản toàn cầu dưới sự quản lý của các sản phẩm giao dịch (ETP), một vũ trụ rộng lớn hơn của các sản phẩm theo dõi danh mục đầu tư được niêm yết, có thể tăng từ khoảng 1.500 tỷ USD năm 2010 lên 3.100 tỷ USD tới 4.700 tỷ USD năm 2015.


Tài sản của các quỹ ETF.

Sự sáng tạo lan tỏa của tài chính một lần nữa hiện ra toàn diện. Bạn có thể mua các ETF tuân thủ luật Hồi giáo, đầu tư vào các cổ phiếu năng lượng sạch, tập trung vào nợ chính quyền địa phương các thị trường mới nổi, và nhiều, nhiều nữa. "Chúng tôi sẽ ngừng tạo ra các ETF khi bạn ngừng tạo ý tưởng," website của iShares, bộ phận ETF của BlackRock tự hào tuyên bố. Các sản phẩm giao dịch chỉ số khác cho phép nhà đầu tư tiếp cận với các loại hàng hóa, từ vàng tới bạch kim. Tháng 8/2011, SPDR Gold Trust nhanh chóng giành được vị trí ETF lớn nhất thế giới từ một quỹ mô phỏng theo chỉ số S&P 500.

Điều đó trông như thể chiến thắng cho các nhà đầu tư trước nhà quản lý quỹ. Tuy nhiên, các ETF đã mất đi một phần hình ảnh của mình trong thời gian gần đây khi tranh luận về rủi ro tiềm tàng của chúng ngày càng lớn hơn. Ý kiến tranh luận bắt đầu vào mùa xuân năm 2011 khi cả Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ủy ban Ổn định Tài chính (FSB), cơ quan giám sát toàn cầu, lên tiếng lo ngại về những cái bẫy ẩn giấu của công cụ này. Nó được đưa ra tranh luận mạnh mẽ hơn bởi những bất đồng gay gắt trong ngành về việc các loại sản phẩm nào thì nên được dán nhãn ETF. Điều này cho thấy việc kiểm soát sự phát triển của các cải cách tài chính khó khăn đến đâu.

Tóm lại, có hai lo ngại về các ETF. Một là chúng đã có thành công đáng kể, và chúng không rõ ràng. Thành công của chúng là điều gì đó mà các nhà quản lý băn khoăn nhiều hơn là ngành: trong lĩnh vực tài chính, bất cứ hệ thống nào cũng có nguy cơ tiềm tàng. Quy mô chuẩn xác của thị trường ETF là tương đối so với số tài sản toàn cầu ước tính thuộc quyền kiểm soát của các nhà quản lý quỹ, khoảng 100.000 tỷ USD hoặc hơn. Tuy nhiên, các tổ chức ở trung tâm của nó - nói riêng, các ngân hàng đầu tư như Deutsche Bank và Societe Generale nói chung là cực lớn, khiến người ta lo lắng rằng khủng hoảng ETF có thể lan rộng hơn. Và sự phát triển nhanh chóng trong chính bản thân các ETF cũng đủ để gây lo ngại.

Không thể tìm hiểu

Nếu các ETF vẫn là các sản phẩm béo bở như thời kỳ đầu, các nhà quản lý sẽ chẳng mấy lo ngại về chúng. Điều khiến họ lo lắng là sự thiếu rõ ràng của công cụ này. Ngành tài chính vẫn bị chi phối bởi các sản phẩm hữu hình, các nhà quản lý quỹ ra ngoài và mua từng thành phần của chỉ số mà họ theo dõi.

Tuy nhiên, có một phần thị trường ETF, chiếm chưa tới 10% tài sản toàn cầu được quản lý và tập trung tại châu Âu, là sản phẩm "tổng hợp". Điều này nghĩa là lợi nhuận được tạo ra bởi quỹ tới từ một sự hoán đổi với một đối tác, thường là một chi nhánh của nhà quản lý quỹ. Thay vì sử dụng tiền mặt của các nhà đầu tư để mua các chứng khoán cơ bản, tiền được đưa vào một rổ tài sản thế chấp mà lợi nhuận được hoán đổi với một đối tác để đổi lấy lợi nhuận của chỉ số đang được nhắm tới.

Điều đó khiến nhiều người kinh hãi bởi nó chỉ ra rủi ro đối tác cho các nhà đầu tư. Nếu đối tác hoán đổi vỡ nợ, nhà đầu tư sẽ còn lại một rổ tài sản thế chấp như chứng khoán. Tài sản thế chấp này có thể chẳng có chút tương đồng nào với tài sản mà ETF đó theo dõi bên ngoài. Một số nhà quản lý lo ngại các ngân hàng cố ý chọn các cấu trúc tổng hợp để họ có thể phá giá các tài sản thanh khoản kém của họ trong rổ tài sản thế chấp và nhận nguồn tài trợ mà họ đáng ra không thể có.

Lo ngại rằng một số nhà đầu tư có thể không hiểu họ đang tự đẩy mình vào việc gia hạn cho các sản phẩm khác. Trái phiếu giao dịch chỉ số (ETN), nghe có vẻ giống các ETF nhưng chúng là các công cụ nợ không được đảm bảo về cơ bản do các ngân hàng phát hành. Một dạng khác của ETF được tạo thành bởi đòn bẩy và tìm cách mang lại lợi nhuận hàng ngày tiếp xúc đặc biệt với một tác động "kép". Tưởng tượng mức tăng 10% của khoản đầu tư 100 USD trong ngày một, sau đó là giảm 10% trong ngày hai: giá trị của khoản đầu tư sẽ kết thúc ở 99 USD chứ không phải 100 USD như nhiều người giả sử. Hiện nay, tùy chọn đòn bẩy được thiết kế để tăng gấp đôi động lực của hoạt động đầu tư, vì thế, mỗi ngày sẽ ghi nhận sự thay đổi 20%: kết quả sẽ là khoản đầu tư giờ chỉ còn giá trị 96 USD. Tác động kép này cũng đúng với các ETF nghịch đảo, vốn được thiết kế để tạo ra tiền khi thị trường giảm. Những rủi ro vốn có trong các sản phẩm đòn bẩy và nghịch đảo tự phơi bày nhiều nhất trong các thời kỳ biến động.

Trong tháng 10, BlackRock tự đặt mình ở phía bên các thiên thần bằng cách phát hành một tài liệu kêu gọi tiết lộ rõ ràng hơn về các sản phẩm được bảo đảm bởi các phái sinh, để nhà đầu tư rõ hơn về danh tính của đối tác, thành phần của các tài sản thế chấp, và để sử dụng nhiều đối tác chứ không chỉ một đại lý hoán đổi duy nhất.Nó cũng phác thảo đề suất phân loại chính thức các sản phẩm giao dịch chỉ số để chỉ một số công cụ được gọi là ETF.

Các đối thủ cho rằng cách tiếp cận của BlackRock chỉ mang lại lợi ích cho chính hãng đó: hãng là một trong ba nhà cung cấp chủ yếu tại Mỹ và cung cấp một loạt các sản phẩm chiếm gần hết các ETF vật chất. Các nhà cung cấp ETF tổng hợp tranh luận rằng cũng có tất nhiều rủi ro đối tác trong các quỹ vật chất hữu hình, bởi chứng khoán của các quỹ này thường được cho các nhà đầu tư khác vay để đổi lấy tài sản thế chấp. Các sản phẩm phái sinh cũng là một đặc trưng của thị trường ETF tại châu Âu. Những sản phẩm tổng hợp được quản lý chặt chẽ bởi các quy định của EU.

Chuyển động liên tục

Bản chất của tài chính là thử nghiệm không bao giờ ngưng và vì thế, các ETF cũng vậy. Áp lực đổi mới sẽ tăng tính cạnh tranh. Báo cáo của McKinsey cho rằng số lượng các nhà quản lý ETF tại Mỹ đã tăng gấp 10 lần trong thập kỷ qua, điều đó đảm bảo ngành này sẽ tiếp tục thúc đẩy các sản phẩm mới.

Vẫn còn nhiều khả năng phát triển cho các ETF vật chất hữu hình, không chỉ trong cổ phiếu mà còn cả trái phiếu. Các sản phẩm cũng hướng tới các khu vực khác hơn bao giờ hết để mang tới lợi nhuận cao hơn. điều có thể đẩy mọi việc tới một hướng khác và yêu cầu sử dụng nhiều sản phẩm phái sinh hơn để nhân rộng các tiếp xúc mong muốn.

Tất cả những khả năng này đòi hỏi các cơ quan giám sát tài chính tiếp tục cảnh giác. Báo cáo của FSB chỉ ra rằng phân loại từ các chứng khoán thành các tài sản khác đồng nghĩa với việc chuyển dịch tới các thị trường có thanh khoản thấp hơn chẳng hạn. Nếu một ETF đang hoạt động, các nhà đầu tư đôi khi không biết có gì trong danh mục đầu tư của mình, các nhà quản lý đặt cược tùy ý và không mấy minh bạch. Sự cạnh tranh khốc liệt hơn cũng sẽ khuyến khích các nhà cung cấp kiếm tiền nhiều hơn từ việc cho vay chứng khoán, nghĩa là thậm chí các nhà đầu tư sản phẩm vật chất cũng có thể tiếp cận với những mức độ ngày càng cao của rủi ro đối tác.

Toàn bộ các hình thức phát triển sẽ tăng trọng lượng của ETF trong việc xác định giá cổ phiếu là viễn cảnh khiến nhiều người lo lắng.
Nguồn: Khampha/Economist
[Continue reading...]

Phương pháp phân tích của Wyckoff - Wyckoff Analysis

- 0 nhận xét
Giới thiệu:

Richard D. Wyckoff, một người được cho là đã không ngừng nghiên cứu về thị trường chứng khoán trong cuộc đời của ông (1873-1934), một nhà đầu tư, đầu cơ và một người tiên phong trong lĩnh vực phân tích kỹ thuật. Trên cơ sở lý thuyết của ông, những nghiên cứu và kinh nghiệm trong cuộc sống thực, Wyckoff đã phát triển một phương pháp kinh doanh đã đứng vững và vượt qua mọi thử thách theo thời gian. Wyckoff bắt đầu với việc đánh giá thị trường tổng thể (Market Analysis) và sau đó đi sâu vào việc tìm những cổ phiếu (Stock Analysis) có lợi nhuận tìm năng.

Wyckoff cho rằng trong thị trường chứng khoán không có gì là dứt khoát. Sau tấc cả, giá cổ phiếu được điểu khiểu bởi cảm xúc của con người. Chúng ta không thể mong đợi cùng một mô hình chính xác lặp lại theo thời gian. Tuy nhiên, một mô hình hay hành vi tương tự sẽ lặp lại, và nhà phân tích đồ thị khôn ngoan có thể nắm bắt để có lợi nhuận. Ông đưa 2 quy tắc mà bắt buộc các nhà phân tích đồ thị phải ghi nhớ:

Quy tắc 1: Đừng mong đợi thị trường cư xử một cách chính xác theo cùng một cách hai lần. Thị trường là một nghệ sĩ, không phải là một cái máy. Các tiết mục biểu diễn thường dựa trên một kiểu hành vi cơ bản mà trong đó đã có những sự chỉnh sửa tinh tế, sự so sánh và những phát kiến bất ngờ. Thị trường luôn có triết lý riêng của nó.

Quy tắc 2: Hành vi của thị trường ngày hôm nay chỉ có ý nghĩa đáng kể nếu nó được so sánh với thị trường trong ngày hôm qua, trong tuần trước, tháng trước, thâm chí là năm trước. Thị trường hôm nay phải được so sánh với những gì nó làm trước đây.

Phân tích thị trường (Market Analysis):


Có 4 điểm chính trong phân tích thị trường của Wockoff: xác định xu hướng (trend identification), các mẫu hình đảo chiều (reversal patterns), dự báo giá (price projections) và vị trí trong xu hướng (trend position).




Bắt kịp xu hướng thì đã xem như hoàn thành được một nửa trận chiến vì sự dịch chuyển của chứng khoán được phối hợp cùng xu hướng của thị trường chung. Xu hướng này tiếp tục cho đến khi một đỉnh hoặc một đáy lớn được hình thành. Những người chơi hiếu chiến có thể hành động trước khi các mẫu hình đảo chiều này hình thành, nhưng xu hướng hiện tại không chính thực được xem là đảo ngược cho đến khi giá phá vỡ một mức chông đỡ hay kháng cự quan trọng với mức khối lượng ở mức tốt.

Khi một đỉnh hoặc đáy hoàn tấc, nhà phân tích đồ thị có thể sử dụng đồ thị Point & Figure để dự báo giá, tính toán chiều dài của đợt tăng hoặc giảm. Xu hướng được coi là trưởng thành và chín mùi cho một sự đảo ngược khi giá đi vào vùng mục tiêu đó.





Xu hướng này tiếp tục, nhà phân tích sau đó có thể xác định vị trí của giá trong xu hướng để đảm bảo một tỷ lệ rủi ro/ lợi nhuận khi mở vị thế. Nhà phân tích đồ thị nên tránh mở thêm vị thế mua mới khi thị trường được cho là mua quá mức và cũng tránh mở thêm vị thế bán mới khi thị trường được cho là bán quá mức.

Phân tích cổ phiếu (Stock Analysis):

Sau khi phân tích thị trường chung và thiết lập một khuynh hướng giao dịch, Wyckoff quay sang lựa chọn các cổ phiếu riêng và tập trung vào giao dịch các cổ phiếu có sự hòa hợp (hamony) với xu hướng thị trường chung. Theo đó, phần lớn các cổ phiếu di chuyển trong cùng một xu hướng với thị trường chung. Do đó, Wyckoff tập trung vào các vị thế mua (long) khi chỉ số thị trường đang trong xu hướng tăng và vị thế bán (short) khi chỉ số thị trường đang giảm.

Trước khi đi vào quá trình lựa chọn cổ phiếu cụ thể, ghi nhớ 4 bước giai đoạn của sự biến động giá: tích lũy (accumulation), tăng giá (markup), phân phối (distribution) và giảm giá (markdown). Nhìn chung có 4 bước trong quá trình lựa chọn chứng khoán.

Đầu tiên, các nhà phân tích đồ thị bắt đầu bằng cách lựa chọn một nhóm hoặc một ngành cụ thể có sức mạnh tương đối so với thị trường. Mặc dù thị trường chung chi phối xu hướng của các cổ phiếu, Wockoff hiểu rằng một số nhóm dẫn đắt và một số nhóm thì tụt hậu trên thị trường. Mục tiêu là tìm thấy nhóm nào có sức mạnh tương đối so với thị trường. Chưa có được sự hỗ trợ của máy tính trong thời đại của mình, cách đơn giản mà Wockoff đã làm là so sánh đồ thị giá thực tế để xác định sức mạnh tương đối của một nhóm cổ phiếu.

Nhóm nào giữ được đà tăng (hold up) khi thị trường di chuyển xuống mức thấp mới cho thấy một sức mạnh tương đối so với thị trường và ngược lại.



Thứ 2, tìm kiếm các cổ phiếu có sức mạnh trong nhóm này. Điều này sẽ giúp bạn mua các cổ phiếu có sức mạnh tương đối so với thị trường. Có 3 cách để xác định điều này: (i) cổ phiếu có thể tăng với một tỷ lệ dốc hơn so với index của thị trường; (ii) các cổ phiếu có thể tăng khi index thị trường đi ngang (sideway); (iii) các cổ phiếu có thể tăng hoặc đi ngang (flat) khi thị trường hiệu chỉnh.



Thứ 3, tìm kiếm các tín hiệu bằng cách sử dụng các mẫu hình và khối lượng. Các mô hình mà Wyckoff sử dụng các mô hình giá và khối lượng để tạo ra các tín hiệu cho các cổ phiếu. Các mô hình đầu cơ giá tăng (Bulish) bao gồm các vùng đệm (springboard) gần các vùng chống đỡ, kéo ngược (pullback) và thoái lui 50% và được củng cố với khối lượng cao.

Thứ 4, tính toán rủi ro và lợi nhuận để xác định tính khả thi của một giao dịch. Tính toán các tỷ lệ lợi nhuận tiềm năng và các rủi ro tiềm ẩn để thiết lập các điểm dừng thích hợp. Wyckoff tin rằng một mức lợi nhuận kỳ vọng nên gấp 3 lần mức độ chịu rủi ro, tức là chấp nhận mất 5$ để được 15$ hoặc cao hơn. Wyckoff sử dụng đồ thị Point & Figure để tính toán các mục tiêu giá và lợi nhuận tiềm năng.

Kết luận:

Richard D. Wyckoff đã trình bày một phương pháp tiếp cận có hệ thống để xác định xu hướng thị trường, lựa chọn các nhóm ngành có sức mạnh tương đối so với index của thị trường và các cổ phiếu mạnh trong nhóm đó. Cách tiếp cận này đã vượt qua nhiều thử thách cũng thời gian, việc áp dụng cho ngày hôm nay, 10 năm hay 50 năm trước là như nhau. Lưu ý rằng cách tiếp cận của Wockoff là một hướng dẫn tổng thể, đó không phải là một môn khoa học chính xác. Các nhà phân tích đồ thị nên thực hiện các đồ thị riêng của mình. Bỏ qua các thông tin cơ bản và các tin tức từ các phương tiện truyền thông. Tập trung vào hành động giá và hãy để cho đồ thị tự nói lên điều cần thiết. (Forget about the fundamentals and financial media. Focus on price action and let the charts speak for themselves).

Xem thêm: >>>Giới thiệu khái quát Phân tích kỹ thuật và các trường phái Phân tích kỹ thuật

Sưu tầm / Internet
[Continue reading...]
 
Copyright © . Phân tích Kỹ thuật Technical Analysis - Posts · Comments
Theme Template by BTDesigner · Powered by Blogger