Thứ Tư, 5 tháng 6, 2013

Một số điểm đáng chú ý trong cơ chế giao dịch mới tại HNX áp dụng trong thời gian tới

- 0 nhận xét
HNX đang test với đa số cty CK về cơ chế GD mới, theo đó sẽ có 3 nội dung chính: thời gian GD chia làm 4 đợt; bổ sung 1 số loại lệnh GD mới, cơ chế circuit breaker. HNX cũng đang phối hợp với 1 số cty CK giới thiệu về cơ chế này.

Đánh giá ban đầu của tui là: phức tạp hơn, khó hiểu hơn, nhưng nếu đã hiểu rồi thì NĐT có thể làm được nhiều chiêu trò hơn. Trong blog này, tui tạm giới thiệu sơ qua về những nội dung trên cái đã.

1. Phương thức GD: chia làm 4 đợt khớp lệnh trong ngày, trong đó 3 đợt đầu giống HOSE: phiên mở cửa, phiên liên tục và phiên đóng cửa. Tuy nhiên bắt chước 1 số sàn chứng khoai tây, HNX cũng có after-hour session, gọi nôm là phiên sau đóng cửa nhằm vét thêm lệnh GD trong cùng ngày. Nếu bạn không muốn chờ qua ngày GD hôm sau thì có thể tranh thủ ở phiên này. Vụ này k có gì phức tạp, tui k đi sâu vào giải thích nữa.

2. Loại lệnh GD: cái này mới phức tạp đây, trước tiên tui chỉ xin giới thiệu mấy nét chính, còn những tiểu tiết như hủy lệnh, sửa lệnh, xử lý phần khối lượng dư sau khi khớp… thì nói sau. Ngoài loại lệnh hiện tại là lệnh giới hạn – Limit Order (LO) thì sắp tới HNX sẽ áp dụng thêm 2 loại lệnh mà bạn đã biết trên sàn HOSE là ATO và ATC, và 7 loại lệnh mới toanh, trong đó 6 lệnh được dùng trong phiên liên tục, 1 dùng trong phiên sau đóng cửa:

- Lệnh Khớp hết hoặc hủy – MOK, dựa trên thuộc tính nếu không được khớp toàn bộ thì lệnh này sẽ bị hủy – Fill or Kill (FOK). Ví dụ: trên sổ lệnh có 1 lệnh bán khối lượng 900. Nếu bạn đặt 1 lệnh mua MOK khối lượng 1.000 thì lệnh này sẽ bị hủy, vì thiếu 100. Còn nếu bạn đặt 1 lệnh mua MOK 800 thì sẽ khớp hết. Đây là loại lệnh chảnh, đối tác phải cùng đẳng cấp mới chơi, k thì hủy, em chã.

- Lệnh Khớp và hủy – MAK, dựa trên thuộc tính phần còn lại k khớp sẽ bị hủy – Fill and Kill (FAK – đề nghị bà con phát âm cho chuẩn). Ví dụ: trên sổ lệnh có 1 lệnh bán khối lượng 900. Nếu bạn đặt 1 lệnh mua MAK khối lượng 1.000 thì lệnh này sẽ khớp 900, phần còn lại 100 sẽ bị hủy (phần dư của lệnh MP trên sàn HOSE sẽ được chuyển thành lệnh LO). Còn nếu bạn mua MAK 800 thì bạn biết kết quả rồi đó. Cũng khá chảnh phải k bạn, nhưng đỡ hơn chú MOK ở trên.

+ Lệnh thị trường-Giới hạn - Market to Limit (MTL): trong tài liệu của HNX có ghi “Lệnh Thị trường – Giới hạn là lệnh mua chứng khoán tại mức giá bán cao nhất hoặc lệnh bán chứng khoán ở mức giá mua thấp nhất”, tui nghĩ là có sự nhầm lẫn ở 2 chữ được bôi đỏ. Không biết các bác HNX giải thích thế nào tại các buổi hội thảo tại 1 số cty chứng khoán như VNDirect, MBS… (cả chứng trường cần nắm rõ mà các bác chỉ hội họp ở vài cty CK, rõ là k công bằng), chứ tui nghĩ nếu đảo ngược lại 2 chữ bôi đỏ kia thì lệnh MTL sẽ chính là lệnh MP của sàn HOSE.

+ Lệnh dừng – Stop Order (SO): là loại lệnh “anh hùng Núp”, tức là núp đâu đó, khi đạt được điều kiện gì đó thì mới nhảy xổ vào sổ lệnh của HNX. Điều kiện ở đây là Giá dừng, có 2 loại thuộc tính:

->SO: nếu giá dừng >= giá khớp gần nhất thì active. Ví dụ: bạn đặt 1 lệnh mua >SO giá dừng 10 k/cổ. Nếu giá khớp đang ở mức 10,1 k/cổ thì lệnh của bạn vẫn núp. Nếu giá khớp rớt về 10 hoặc 9,9 k/cổ thì lệnh bạn nhảy ra và… khớp hoặc treo trên sổ lệnh như 1 lệnh LO thông thường.

- <SO: nếu giá dừng <= giá khớp gần nhất thì active. Ví dụ: bạn đặt 1 lệnh mua <SO giá dừng 10 k/cổ. Nếu giá khớp đang ở mức 9,9 k/cổ thì lệnh của bạn vẫn núp. Nếu giá khớp tăng lên 10 hoặc 10,1 k/cổ thì lệnh bạn nhảy ra tham gia cuộc vui.

+ Lệnh tảng băng – Iceberg Order (IO): lệnh này cho phép ẩn đi 1 phần khối lượng đặt, nôm na là giống như cách bán vé số dạo ở SG: “em ơi, chị chỉ còn 2 vé thui, mua giùm cho chị còn dzìa. Ai dè mua 2 tờ xong, bà chị đi 1 quãng rồi lôi tiếp ra 2 tờ nữa…”. Đơn giản, tui nghĩ đây là loại lệnh… bá đạo. Khi đặt lệnh này, bạn sẽ phải đưa ra tổng khối lượng đặt và khối lượng maximum (khối lượng đỉnh) mà bạn muốn show (phần còn lại sẽ ẩn). Bạn muốn bẫy ai thì chơi lệnh này. Ví dụ: bạn đặt 1 lệnh mua IO tổng khối lượng 1.000 nhưng chỉ show tối đa 100. Lệnh này ban đầu xuất vào sổ lệnh 100 (ẩn 900). Chú nào đặt bán 200, theo cách GD thông thường thì sẽ khớp với bạn 100, còn dư 100 (bên bán). Nhưng thực tế thì… vừa khớp xong 100, lệnh của bạn sẽ xuất tiếp 100 (ẩn 800) -> khớp tiếp 100 với bên bán -> lệnh của bạn xuất tiếp 100 (ẩn 700). Cứ thế, cứ thế…

+ Lệnh tốt nhất cùng bên/khác bên – Same side Best Order (SBO)/Opposite side Best Order (OBO): là loại lệnh “Hoàng tử lai”, tức là người đặt chỉ ghi khối lượng, k ghi giá (tương tự khi bạn đặt lệnh MP). Nhưng khi vào sổ lệnh, lệnh này sẽ chuyển thành lệnh LO với mức giá tùy theo giá tốt nhất cùng bên hoặc khác bên đang treo trên sổ lệnh. Ví dụ trên sổ lệnh, lệnh mua tốt nhất (giá cao nhất) chưa khớp ở mức giá 10 k/cổ, lệnh bán tốt nhất ở mức 10,2 k/cổ:

- Bạn đặt 1 lệnh mua SBO. Khi vào sổ lệnh, lệnh của bạn sẽ chuyển thành lệnh mua LO có giá = 10 k/cổ.

- Bạn đặt 1 lệnh mua OBO. Khi vào sổ lệnh, lệnh của bạn sẽ chuyển thành lệnh mua LO có giá = 10,2 k/cổ và rồi… khớp với lệnh bán.

+ Lệnh Tại mức giá đóng cửa (PLO): không biết lệnh này có phải là để tưởng niệm bác Yasser Arafat, lãnh đạo tổ chức Giải phóng Palestine PLO hay k??? Đơn giản thôi, giả sử cổ phiếu A đóng cửa tại mức giá 100 và đang có dư bán tại mức giá đó. Trong phiên after-hour, nếu bạn muốn mua luôn chứ k chờ đến ngày GD hôm sau, bạn chỉ cần đặt lệnh PLO có khối lượng <= khối lượng dư bán nói trên, lệnh của bạn sẽ được khớp tại mức giá 100.

3. Cơ chế cầu dao – Circuit breaker: cho phép tạm ngưng GD tự động khi có thông tin tức thời làm ảnh hưởng mạnh lên giá chứng hay index. Phần này HNX chưa có hướng dẫn cụ thể nên đành chờ thôi.
Hoàng Thạch Lân
(Bài viết được dẫn lại từ blog với sự đồng ý của tác giả, đăng ngày 15/05/2013)
Theo: Infonet
[Continue reading...]

Tìm hiểu về quỹ mang tên "Hedge Fund"

- 0 nhận xét
Hedge fund là loại quỹ đầu cơ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt. Khái niệm "Hedge Fund" không nhằm ám chỉ tới một loại pháp nhân riêng biệt của thị trường vốn, mà chỉ là cách người ta gọi nhằm phân biệt các quỹ ít bị quản chế chặt chẽ (do các điều luật nới lỏng hơn). Thường các quỹ loại này chỉ giao dịch với một số lượng hạn chế các nhà đầu tư vào quỹ, vì thế thường mỗi nhà đầu tư phải bỏ ra những khoản tiền đầu tư rất lớn đóng theo phương thức "gọi vốn không đại chúng" (private placement). Ngược với các quỹ Hedge Fund là các quỹ có tính đại chúng cao, phần đông dân cư đều có thể tham gia đầu tư và thường được xếp vào nhóm các Quỹ hỗ tương (Mutual Funds).

Giới thiệu

Mặc dù, các quỹ đầu cơ không được sự ưu ái của giới truyền thông, có rất nhiều quỹ thực tế hoạt động đầu tư rất tốt và có thể là một phần không thể thiếu của một danh mục đa dạng hóa tốt. Nhưng chính xác quỹ đầu cơ (hedge fund) là gì, và những gì mà nhà đầu tư cần biết trước khi đầu tư vào quỹ đầu cơ? Trong những phần tiếp theo, tôi sẽ giới thiệu cơ bản về đặc điểm và chiến lược đầu tư của quỹ đầu cơ cũng như hướng dẫn một cách đơn giản về định giá một quỹ đầu cơ.

Quỹ đầu cơ có thể là làm những khoản đầu tư rất rủi ro và rất nhiều nhà đầu tư được đốt cháy bằng việc các quỹ lớn thổi phồng lên giá trị. Trong nhiều trường hợp, nhà đầu tư theo tâm lý bầy đàn đuổi theo lợi nhuận, và đổ càng nhiều tiền vào những quỹ có hiệu quả sinh lợi cao mà không cần biết hiêu quả đó có ổn định không và quan trọng hơn là thành tựu đó có được lặp lại trong tương lai không.

Trong bài viết này, tôi không mong muốn tạo ra một chuyên gia phân tích quỹ đầu cơ cho bạn, nhưng nếu bạn là một quỹ đầu cơ mới hoặc bạn hoặc nhà tư vấn của bạn đang cân nhắc về việc đầu tư vào quỹ đầu cơ, bài viết này sẽ đưa cho bạn một vài hiểu biết cơ bản về cầu chúng của quỹ đầu cơ như thế nào, chiến lược và đặc điểm của họ, cũng như làm thế nào để sử dụng họ cho danh mục đầu tư của bạn.

Cấu trúc

Về cầu trúc, một hedge fund có một vài điểm tương tự như mutual fund (quỹ tương hỗ). Ví dụ, giống như mutual fund, quỹ đầu cơ là một công cụ đầu tư đa dạng, mà làm những khoản đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, quyền chọn và nhiều loại chứng khoán khác. Nó cũng được điều hành bởi một người quản lý riêng biệt, giống như là một nhà tư vấn cao cấp điều hành quỹ tương hỗ được phân phối bởi một công ty quỹ tương hỗ lớn. Tuy nhiên, đó không có nghĩa là giống nhau tất cả. Những khoản đầu tư chiến lược biến động của quỹ đầu cơ tới những vị thế rộng lớn của chúng trong một vài trường hợp khá phức tạp. Tôi sẽ tập chung vào một chiến lược đặc biệt vào phần sau trong bài viết này, do đó bây giờ chúng ta tập chung vào cấu trúc của hedge fund như thế nào.

Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu quỹ đầu cơ thực sự điển hình là một tổ chức gồm hai tầng.




Bảng 1: Sơ đồ cầu trúc của Hedge Fund – Nguồn: Investopedia, 2009

Các mô hình hợp tác chung/giới hạn là cấu trúc phổ biến nhất cho quỹ đầu tư hợp tác và cũng được áp dụng cho quỹ đầu cơ. Trong cấu trúc này, các đối tác chung nhận trách nhiệm cho hoạt động của quỹ, trong khi giới hạn nhà đầu tư có thể làm những đầu tư vào các đối tác và chỉ chịu trách nhiệm đối với số tiền họ được trả. Như một quy tắc, một sự hợp tác toàn diện/giới hạn phải có ít nhất một GP và một LP, nhưng có thể có nhiều loại GP và nhiều loại LP. Có một quy tắc của SEC, tuy nhiên nó thường giới hạn nhà đầu tư tới 99 để mà khỏi phải đăng kí với SEC.

Thành phần thứ hai của cấu trúc hai tần là cấu trúc của quan hệ đối tác chung. Những loại cấu trúc dùng cho đối tác chung là công ty trách nhiệm hữu hạn. Một LLC (cty TNHH) là tương tự như một công ty tiểu chương S (subchapter S corporation) ở chỗ nó là dòng tiền chảy thông qua các tổ chức thuế và nhà đầu tư được giới hạn trách nhiệm trong khoản tiền họ đầu tư. Trách nhiệm của đối tác chung là tạo thị trường và quản lý quỹ, và thực hiện một vài chức năng cần thiết trong hoạt động kinh doanh bình thường, bao gồm thuê người quản lý quỹ (đôi khi là một công ty có liên quan) và quản lý hành chính các hoạt động của quỹ.

Cơ cấu phí

Quỹ đầu cơ cũng khá khác so với quỹ tương hỗ trong cách họ trả phí như thế nào. Cơ cấu phí của họ là một trong những nguyên nhân tại sao mà những nhà quản lý tiền tài năng quyết định mở quỹ đầu cơ cho chính họ. Không chỉ phí được trả bở những nhà đầu tư cao hơn cho nhưng nhà quản lý ở quỹ tương hỗ, họ cũng được thêm những khoản phí mà những nhà quản lý quỹ tương hỗ không có.

Phí quản lý

Phí quản lý cho quỹ đầu cơ là tương tự như phí dịch vụ được trả cho bên quỹ tương hỗ. Sự khác biệt là ở quỹ đầu cơ thì loại phí quản lý là khoản 2% trên số tài sản quản lý và trong một vài trường hợp coàn cao hơn, nếu người quản lý là người được cầu cao và có khả năng quản lý tốt từ trước. Một mình phí này đã đang làm cho việc quản lý một quỹ đầu cơ thêm hấp dẫn, nhưng tới loại phí tiếp theo mới tạo thành một động lực tốt cho người quản lý tốt.

Phí ưu đãi

Hấu hết nếu không muốn nói là tất cả các quỹ đầu cơ đều trả phí ưu đãi khoảng 10-20% lợi nhuận của quỹ, và một vài quỹ còn có khi trả tới 50%. Mục đích cho việc chi trả phí ưu đãi là để thưởng cho những người quản lý có hiệu quả tốt, và nếu hiệu quả của quỹ đủ hấp dẫn, nhà đầu tư sẽ sẵn sàng trả phí này. Ví dụ, nếu nhà quản lý quỹ tạo ra được 20% lợi nhuận một năm, sau khi trả phí quản lý, nhà quản lý sẽ nhận được 4% khoản lợi nhuận này, và đưa cho nhà đầu tư 16% còn lại. Trong nhiều trường hợp, đây vẫn là mức sinh lợi cao mặc dù đã phải trả phí ưu đãi cao, nhưng nó thu hút được những nhà quản lý giỏi tham gia vào thị trường này và nhà đầu tư thường không phải thất vọng vào lợi nhuận của nhiều quỹ này.

Tuy nhiên, phải có một sự báo trước cho những phí ưu đãi này. Một người quản lý chỉ thu được phí ưu đãi này khi lợi nhuận vượt mức cao của kì trước, được gọi là lợi nhuận vượt trội. Điều này có nghĩa là nếu quỹ lỗ cao hơn 5% so với kì trước, người quản lý sẽ không nhận được phí ưu đãi cho đến khi họ kiếm hơn 5% mức lỗ đó. Thêm nữa, một vài người quản lý phải phải vượt qua được tỷ lệ lợi nhuận hạn mức , như là lợi nhuận từ trái phiễu Mỹ, trước khi kiếm được khoản phí ưu đãi.

Các quỹ đầu cơ thường được gọi với cái tên là cấu trúc “hai và hai mươi” - ở đó người quản lý nhận 25 của giá trị tài sản ròng được quản lý và 20% lợi nhuận, mặc dù được thiết lập chung như vậy nhưng chúng vẫn có thể khác nhau ở các quỹ đầu cơ.

Cấu trúc điều khoản

Các điều khoản được đưa ra cho các quỹ phòng hộ rất độc đáo mf mỗi quỹ là có sự khác nhau, nhưng chúng thường dựa trên các yếu tố sau:

Tham gia và rút vốn

Quỹ đầu cơ không có tính thanh khoản hằng ngày như những quỹ tương hỗ. Một vài quỹ đầu cơ có thể tham gia và rút vốn theo tháng, trong khi một vài quỹ khác thì chỉ chấp nhận theo quý. Các điều khoản của một quỹ đầu cơ nên được phù hợp với chiến lược cơ bản của người quản lý. Để thêm thanh khoản cho những khoản đầu tư cơ bản, thì các điều khoản tham gia/rút vốn nên được thường xuyên hơn. Mỗi quỹ cũng nên quy định một số ngày cụ thể có thể rút ra, giao động từ khoảng 15 đến 180 ngày, điều này nên được cố định với những chiến lược đầu tư cơ bản. Yêu cầu về thông bao rút vốn cho phép người quản lý quỹ đầu cơ tăng hiệu quả vốn để trang trải nhu cầu tiền mặt.

Thời gian giới hạn

Một vài quỹ yêu cầu một đến hai năm cam kết “giới hạn” , nhưng thời gian giới hạn phổ biến là khoảng 1 năm. Trong một vài trường hợp, nó có thể có một giới hạn chặt chẽ, ngăn chặn các nhà đầu tư rút tiền trong toàn bộ khoảng thời gian, trong khi trong một vài trường hợp khác, nhà đầu tư có thể rút vốn trước thời gian giới hạn được quy định chỉ cần đóng một khoản phạt. Hình thức thứ hai của thời gian giới hạn là giới hạn mềm và mức phạt có thể giao động từ 2%-10% trong một số trường hợp đặc biệt. 
Theo: Vfpress
[Continue reading...]
 
Copyright © . Phân tích Kỹ thuật Technical Analysis - Posts · Comments
Theme Template by BTDesigner · Powered by Blogger